Wikipedia

Kết quả tìm kiếm

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2013

* T H O * Ngô Minh Hằng - GIÁNG SINH HÀ NỘI

ĐÊM GIÁNG SINH GIỮA LÒNG HÀ NỘI










 
Giữa Hà Nội, trong mùa Đông lạnh gía
Lấp lánh hoa đèn đón Giáng Sinh vui
Đời hai mặt như hai bề chiếc lá
Em, buồn thiu, đời rộn rã cuộc đời ...

Em, đêm nay, hiên nhà hay góc chợ
Tiết đông về hẳn lạnh thấu đài tim
Áo rách thế, sao em ngăn được gió
Chẳng cơm chiều, bao tử có nằm im ???

Rồi mai sáng, cùng mặt trời, tất bật
Em mệt nhoài tay bới rác, tìm cơm
Trên bãi rác, người giống như con vật
Con vật người ôi, tủi nhục nào hơn ?!

Cạnh bãi rác không xa là thành phố
Có những căn lầu, biệt thự nguy nga
Chủ là đảng viên, sao vàng lố nhố
Trên đỉnh uy quyền, thác loạn, xa hoa ...

Ngày cuối năm đảng tưng bừng yến tiệc
Lấy máu dân làm rượu chúc nhau bền
Quà tân niên những phong bì kỷ niệm
Dày cộm đô la, châu báu, bạc tiền !!!

Con của đảng có dư thừa bánh trái
Và dư thừa quần áo hiệu, đồ chơi
Những thứ đồ chơi văn minh, hiện đại
Những búp bê xinh, mắt chớp, môi cười ...

Em cô độc bước đi trên hè phố
Hè phố cuối năm tấp nập, rộn ràng
Trong tay em, những thứ đời vứt, đổ
Có món đồ chơi cũ kỹ ai quăng

Chợt vọng lại những hồi chuông hối hả
Ô - đêm nay – Đêm Chúa đến cùng người !
Em bỗng nhìn trời – trời đêm tối qúa ...
Lòng nghẹn ngào em gọi : "Chúa Ba Ngôi !!!"
 

 
Ngô Minh Hằng

Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2013

Đại sứ CSVN+Thổ Nhĩ Kỳ bị bắt giữ tại phi trường Frankfurt (Đức)

Đại sứ CSVN ở Thổ Nhĩ Kỳ bị giữ, tình nghi chuyển tiền lậu (!)


FRANKFURT, Đức (NV) .-
Hải quan phi trường Frankfurt - Đức, đã tạm giữ ông Nguyễn Thế Cường – Đại sứ CSVN tại Thổ Nhĩ Kỳ vì mang 20,000 Euro mà không khai báo.



Ông Nguyễn Thế Cường, Đại sứ CSVN tại Thổ Nhĩ Kỳ gặp ông Hayati Yazici, Bộ Trưởng Thương mại Thổ Nhĩ Kỳ hồi tháng 7 năm ngoái. Ông Cường vừa bị cảnh sát Đức tạm giữ vì nghi rửa tiền. (Hình: website Đại sứ quán CSVN tại Thổ Nhĩ Kỳ)
Trang web vietinfo.eu, dẫn tin của báo điện tử Bild.de cho biết, ông Cường đã bị cảnh sát Đức thẩm vấn vì nghi viên Đại sứ CSVN tại Thổ Nhĩ Kỳ rửa tiền. Ông Cường thì khai rằng khoản tiền này là do Đại sứ quán Việt Nam tại Thổ Nhĩ Kỳ quyên góp để giúp những nạn nhân bão lụt tại Việt Nam.
Thông thường, các cơ quan, tổ chức luôn thông báo công khai về hoạt động cũng như kết quả quyên góp do họ thực hiện. Đại sứ quán Việt Nam tại Thổ Nhĩ Kỳ có trang web riêng (http://www.vietnamembassy-turkey.org/vi/).

Nhật báo Người Việt đã thử vào trang web này để tìm kiếm những thông tin có liên quan tới hoạt động quyên góp, cũng như kết quả quyên góp hỗ trợ nạn nhân bị bão lụt tại Việt Nam nhưng không tìm thấy bất kỳ thông tin nào về khoản tiền 20,000 Euro vừa kể.
Trang web vietinfo.eu dẫn một số nguồn tin tại Đức cho biết, Tổng lãnh sự CSVN tại Frankfurt đã gửi công hàm hàm phản đối đến chính phủ Đức về chuyện tạm giữ ông Cường là vi phạm hiệp ước bảo đảm quyền miễn trừ dành cho các nhân viên ngoại giao. Tuy nhiên ông Cường vẫn chỉ được cho tại ngoại sau khi đã đóng khoản tiền thế chân là 3,500 Euro.

Chuyện Đại sứ CSVN tại Thổ Nhĩ Kỳ bị tạm giữ vì vận chuyển một lượng tiền mặt lớn mà không khai báo chắc chắn không làm nhiều người ngạc nhiên. Các viên chức ngoại giao của chế độ Hà Nội đã từng nổi tiếng khắp thế giới vì tống tiền kiều dân khi họ phải liên lạc để làm những thủ tục hành chính cần thiết như gia hạn, đổi passport, xin visa,… nhận hối lộ, bảo kê các hoạt động phi pháp, buôn lậu và thực hiện những hành vi bất xứng khác làm nhục cho quốc thể.

Cuối năm 2008, báo chí Nam Phi công bố một loạt bài điều tra về việc bà Vũ Mộc Anh, Bí thư thứ nhất của Đại sứ quán CSVN tại Nam Phi, buôn lậu sừng tê giác. Lúc đầu, Đại sứ CSVN tại Nam Phi lúc đó là ông Trần Duy Thi phủ nhận việc các viên chức ngoại giao Việt Nam có dính líu tới chuyện buôn lậu sừng tê giác. Viên đại sứ này tuyên bố, không có nhân viên nào của ông ta nhận đã làm chuyện như truyền thông Nam Phi đề cập và ông ta “thường xuyên nhắc nhở nhân viên không được buôn lậu”.
Ngay sau đó, chương trình 50/50 đưa một đoạn video clip lên hệ thống truyền hình Nam Phi, cho thấy bà Vũ Mộc Anh nhận sừng tê giác từ tay một kẻ chuyên săn trộm tê giác. Đáng chú ý là trong video clip vừa kể, người ta còn thấy một người Việt khác cũng đứng tại đó, cạnh một chiếc xe hơi của viên tham tán có tên là Phạm Công Dũng. Trong hồ sơ của cảnh sát Nam Phi, hồi đầu năm 2008, chiếc xe mang biển số ngoại giao của ông Dũng đã từng bị tạm giữ khi một người Việt dùng nó dể vận chuyển 18 ký sừng tê giác.

Đó cũng là lý do CSVN phải triệu hồi bà Vũ Mộc Anh về nước. Cũng tới lúc đó, ông Trần Duy Thi mới thừa nhận sự việc là có thật. Trả lời tờ Tuổi Trẻ, ông Thi nhìn nhận đây là “chuyện đáng tiếc vì hám lợi”.
Thật ra bà Vũ Mộc Anh không phải là trường hợp làm điều “đáng tiếc vì hám lợi” duy nhất trong số các viên chức ngoại giao làm việc tại Đại sứ quán CSVN ở Nam Phi. Hồi 2006, một tùy viên thương mại của cơ quan này tên là Nguyễn Khánh Toàn bị bắt quả tang đang tìm cách đưa 9 ký sừng tê giác ra khỏi Nam Phi.
Năm nay, RFA lên tiếng tố cáo một nhóm người Việt ở Moscow, cầm giữ 15 cô gái, buộc họ phải bán dâm. Liên minh Bài trừ Nô lệ mới ở Châu Á (CAMSA) khẳng định nhóm người này là một tổ chức buôn người. Đáng chú ý là CAMSA công bố một số đoạn băng ghi âm, cho thấy, việc buôn người sang Nga, gây sức ép buộc 15 cô gái bán dâm có sự tiếp tay của một vài nhân viên ngoại giao làm việc trong Đại sứ quán Việt Nam tại Nga. (G.Đ)

Nguồn nguoiviet.com

__________________

Friday, December 20, 2013


Vụ xì căng đan của đại sứ Việt Nam tại sân bay Frankfurt, Đức

Ngày 19.12.2013 hải quan/quan thuế phi trường Frankfurt, CHLB Đức, đã chặn bắt đại sứ Việt Nam tại Thổ Nhĩ Kỳ, Nguyễn Thế Cường, vì tình nghi ông ta mang 20.000 € tiền mặt mà không khai báo.

Cảnh sát đưa ông Cường về đồn, tra hỏi và cáo buộc ông tội „rửa tiền“. Đại sứ Việt Nam biện minh số tiền này là tiền ông mang về nước giúp nạn nhân bão lụt.

Vụ xì căng đan của ông Cường đang có đà dẫn đến một xì căng đan chính trị. Tỗng lảnh sự Việt Nam tại Frankfurt lập tức khiếu nại nhà nước Đức và than phiền hải quan Đức đã vi phạm trầm trọng hiệp ước ký tại Wien/Vienna bảo đảm tính miễn nhiễm dành cho quan chức ngoại giao.

Cảnh sát thả ông đại sứ Việt Nam sau khi ông đóng tiền phạt thế chân 3500,00 €.

Grüne Zone für Anmeldefreie Ware am Zoll Flughafen Frankfurt am Main



Source: www.bild.de

  • Von MAX SCHNEIDER
Frankfurt – Skandal um einen hochrangigen Diplomaten. Zollbeamte stoppten einen Botschafter von Vietnam bei der Einreise – Geldschmuggel-Verdacht!
21.45 Uhr, Diplomat The Cuong Nguyen landet mit „Turkish Airlines“-Flieger „TK 1619“ aus Ankara auf Rhein-Main.
Als er durch die Zollkontrolle huscht, stoppen ihn Beamte. Der Leiter der vietnamesischen Vertretung in der Türkei hat knapp 20 000 Euro dabei – nicht angemeldet.


 
Vergrößern Grüne Zone für Anmeldefreie Ware am Zoll Flughafen Frankfurt am Main
Beamte stoppten den Botschafter als er den „GrünenKanal“ passierte


Foto: dpa Picture-Alliance
Verboten! Nguyen muss mit aufs Revier, Strafverfahren wegen Verdachts auf Geldwäsche!
Jetzt droht die Zollkontrolle zum politischen Skandal zu werden.
Das Generalkonsulat von Vietnam beschwerte sich per „Verbalnote“ beim Zoll: „Durch die Handlungen von den Zollbeamten wurde das Wiener Übereinkommen (Immunität von Diplomaten, d. Red.) deutlich verletzt.“
Mittlerweile gibt es sogar intern beim Zoll Zweifel, ob „die Kontrolle des Botschafters rechtsmäßig“ war.
Unangenehm für Zoll-Chef Albrecht Vieth, der bereits wegen sichergestellter Luxus-Geigen von Star-Musikern und Park-Skandal mit seinem Privatwagen unter Druck ist.
P.S.: Nach Zahlung einer Sicherheitsleistung (3500 Dollar) durfte der Botschafter gehen. Das „Schmuggel-Geld“ wollte er angeblich als Spende für Flutopfer in seine Heimat bringen ... Mehr aktuelle News aus Frankfurt und Umgebung lesen Sie hier auf frankfurt.bild.de.//
 
 

Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2013

Tin rất buồn cuối năm: Ca, Nhạc sĩ và MC Việt Dũng đã từ giã chúng ta!

Posted on | Để lại phản hồi | Sửa 

.

From: Dinh Tran
Sent: Friday, December 20, 2013 3:46 PM
Subject: Việt Dũng
.

Thương Tiếc Việt Dũng

mpd
Dũng 1

Việt Dzũng -Một Nghệ Sĩ Tài Năng Đa Dạng!

.
Việt Dzũng, tên thật Nguyễn Ngọc Hùng Dzũng, sanh ngày 8 tháng 9 năm 1958 tại thành phố Sài Gòn. Cha là bác sĩ – dân biểu của nền Đệ Nhị Cộng Hòa Nguyễn Ngọc Bảy và mẹ là bà Nguyễn Thị Nhung, giáo sư trường Nữ trung học Gia Long. Việt Dzũng có tất cả ba anh chị em, hiện sinh sống tại vùng Thung Lũng Hoa Vàng, miền Bắc California. Việt Dzũng là học sinh trường trung học LaSan Taberd và là một học sinh xuất sắc. Việt Dzũng thụ huấn nhạc cũng tại Taberd, là thành phần trong ban nhạc trường, đóng góp tích cực trong các buổi liên hoan vào những dịp lễ lạc. Trong một lần đại diện trường để tranh giải tài năng trẻ, Việt Dzũng đã thắng giải tiếng hát Nam có triễn vọng nhất trong năm. Năm 1975, Việt Dzũng cùng bà nội và 36 người Việt Nam, vượt biên trên con tàu dài 15-feet. Tại trại tỵ nạn, với số vốn tiếng Anh sẵn có, Việt Dzũng là thiện nguyện viên cho trại trong công việc dịch thuật, giúp đỡ cho đồng bào đồng hương hội nhập đời sống mới. Vào những ngày cuối cùng trại đóng cửa, chàng trai trẻ 17 tuổi Việt Dzũng được Toà Giám Mục thuộc giáo phận thành phố Springfied, tiểu bang Missouri bảo trợ. Năm đầu tiên tại Hoa Kỳ, Việt Dzũng là cậu thiếu niên sống trong một gia đình foster care (Gia đình bảo trợ cho các thanh thiếu niên vị thành niên mồ côi hoặc vô gia đình). Cũng như mọi thiếu niên tỵ nạn khác, Việt Dzũng tiếp tục đi học, và là học sinh tại trung học St. Agnes trong tỉnh. Năm sau, Việt Dzũng đoàn tụ với gia đình và dời về tỉnh Wood River, tiểu bang Nebraska. Trong thời gian là học sinh tại trường trung học Wood River, Việt Dzũng cùng một người bạn Mỹ thành lập một ban nhạc lấy tên là “Firebirds” (Chim Lửa). Cuối tuần, hai chàng trai trẻ đi trình bày nhạc Đồng quê Mỹ (American country music) tại các quán nhạc trong tỉnh và về sau tại khắp tiểu bang Nebraska. Vernon Larsen và Việt Dzũng trở thành một cặp song ca có tiếng trong tỉnh nhỏ này và họ được mời trình diễn trong ngày lễ tốt nghiệp cuối năm của trường trung học tỉnh Wood River. Việt Dzũng chơi đàn và hát rất truyền cảm. Nhiều người Mỹ rất ngạc nhiên lẫn thích thú được chứng kiến một người Việt Nam trình bày nhạc của John Denver, The Beatles, The Eagles …
Năm 1978, Việt Dzũng nộp một bài hát cho một cuộc tranh tài nhạc của tiểu bang Iowa – Iowa Grand Ole Opry – và đã thắng giải nhất trong mục “Tác giả bài hát hay nhất.” Anh được một hãng dĩa nhạc đề nghị bảo trợ sản xuất một album nhạc Đồng Quê, nhưng VD từ chối vì lúc đó anh muốn học cho xong bằng cử nhân tại đại học Omaha, Nebraska. Cùng thời gian này, Việt Dzũng bắt đầu sáng tác nhạc Việt và các bài hát đầu tiên là:” Sau ba năm tỵ nạn tại Hoa Kỳ” và ” Một Chút Quà Cho Quê Hương“. Vào thời gian đó người Việt tỵ nạn bắt đầu có tin tức người thân tại quê nhà, và những thùng quà gói ghém tình thương được gởi về. Bài nhạc rất phù hợp với tâm trạng mọi người Việt hải ngoại, vì thế bài MCQCQH đã nổi tiếng tức thời trong cộng đồng người Việt tỵ nạn khắp nơi trên thế giới:
“Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá
Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay
Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may
Mẹ may hộ con tim gan quá đọa đầy
Gởi về cho chị hộp diêm nhóm lửa
Chị đốt cuộc đời trong hoang lạnh mù sương
Gởi về cho mẹ dăm gói trà xanh
Pha hộ con nước mắt đã khô cằn ….
Con gởi về cho cha một manh áo trắng
Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây
Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy
Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình …”
 
Nhớ lại những ngày đầu tiên làm quen với sinh hoạt văn nghệ của người Việt tha hương, khi Việt Dzũng theo người chú họ về San Antonio, Texas thăm gia đình người bạn nhân dịp tết Nguyên Đán 1979. Tại Hội Chợ Tết nơi đây, anh đã lên sân khấu, ôm đàn guitar trình bày hai ca khúc mà anh vừa sáng tác. Hát xong, nhìn xuống khán giả thì mọi người đã đầm đìa nước mắt và túa ra ôm ấy anh khi anh rời sân khấu. Việt Dzũng đã chinh phục bà con đồng hương nơi đây kể từ lúc này.
Năm sau 1980, Việt Dũng trình diễn tại một đại nhạc hội ở Omaha, Nebraska với Sĩ Phú và Mai Lệ Huyền. Sau đó anh đã hát với Khánh Ly, Hoàng Oanh, Trung Chỉnh ở Denver, Colorado những bài hát do anh sáng tác. Ngay lúc đó, Khánh Ly đã chọn ba bài hát của anh là: “Lời Kinh Đêm, Mời Em Về, Một Chút Quà Cho Quê Hương” đem về California thâu vào băng nhạc “Một Bông Hồng Cho Người Ngã Ngựa” (nhà văn Mai Thảo viết lời giới thiệu). Ba bài hát này đã là những bài hát nằm lòng của hàng triệu người Việt nhiều năm sau đó (kể cả ở trong nước).Năm 1980, là năm mà số người Việt bỏ nước ra đi cao nhất, Việt Dzũng đã cho ra mắt cuồn băng nhạc đầu tay “Kinh Tỵ Nạn” do Trung Tâm Nhã Nhạc tại Houston, Texas thực hiện. Ngay tuần lễ đầu băng nhạc này đã được đón nhận nhiệt liệt từ California đến tận Canada, số bán sau đó đã lên đến cả trăm ngàn ấn bản. Lúc đó, Việt Dzũng đã quyết định chính thức di chuyển qua California sinh sống và sinh hoạt văn nghệ để có thể phát triển tài năng của anh nhiều hơn. Đầu tiên, anh được nhạc sĩ Ngọc Chánh mời hát cho đại nhạc hội ở Orange County và tiếp tục lưu diễn khắp nơi. Anh cũng đã hoàn thành cuồn băng nhạc thứ nhì tên là “Lưu Vong Khúc” vào giai đoạn này. Trước đó, vào năm 1978, anh đã gặp ca nhạc sĩ Nguyệt Ánh tại Đại Hội Thanh Niên Cách Mạng Việt tại thủ đô Washington DC và hai người liền kết nghĩa chị em. Cả hai cùng sáng tác chung một đường lối và họ đã kết hợp thành một đôi song ca trình diễn khắp nơi trên thế giới, chỉ trừ các nước cộng sản mà thôi. Tại Mỹ, họ đã lưu diễn hầu hết 50 tiểu bang, kể cả những tiểu bang có rất ít người Việt sinh sống. Tại Á châu, họ đã hát ở Nhật hơn ba lần, hát cho các phái đoàn ngoại giao, tòa tổng lãnh sự, sứ quán Mỹ ở nhiều nước như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, v.v…Nhưng chuyến lưu diễn ở Âu Châu của Việt Dzũng và Nguyệt Ánh phải coi là một chuyến lưu diễn lịch sử. Đã có hàng ngàn người Việt từ khắp nơi đón xe lửa đến gần địa điểm trình diễn, cắm trại nằm chờ trước hai ba ngày khai mạc để gặp hai thần tượng của họ. Ở Úc Châu khán giả cũng nhiệt liệt đón chào Việt Dũng và Nguyệt Ánh. Họ đã đi hết những thành phố có người Việt cư trú kể cả những nơi hẻo lánh như Perth và Darwin. Đã có nhiều bài báo và cả hai cuốn sách xuất bản ở Úc được viết ra để ca tụng cho lý tưởng đấu tranh chống cộng và ước mơ ngày về quang phục quê hương của đôi nghệ sĩ này. Ngay lúc đó, chính quyền Cộng Sản Việt Nam liền lên án Việt Dzũng và Nguyệt Ánh là hai kẻ phản động số một, tuyệt đối cấm phổ biến tất cả các nhạc phẩm của họ trong nước. Trong một phiên tòa sau đó, CSVN đã kết án tử hình khiếm diện hai nghệ sĩ này.Ngày 1 tháng Tư năm 1985, hai nghệ sĩ này đã kết hợp với những ca nhạc sĩ khác để thành lập Phong Trào Hưng Ca Việt Nam, dùng âm nhạc làm vũ khí đấu tranh chống lại kẻ thù. Cho đến nay, Phong Trào Hưng Ca Việt Nam vẫn còn hoạt động đều đặn với những tên tuổi khác như Huỳnh Lương Thiện, Trương Sĩ Lương, Xuân Nghĩa, Tuấn Minh, Tuyết Mai, Lưu Xuân Bảo,v.v… Cũng trong năm 1985 này, Việt Dzũng đã cho ra đời một băng nhạc hoàn toàn bằng Anh ngữ “Children of the Ocean”. Đây cũng là album nhạc đầu tiên của người Việt hải ngoại bằng tiếng Anh. Các tờ báo Orange County Register, Los Angeles Times, Washington Post đều có những bài viết khen ngợi cuốn băng này. Riêng tờ Austin-American- Stateman đã gọi Việt Dzũng là “người nghệ sĩ nổi tiếng nhất của cộng đồng người Mỹ gốc Việt, và là một tấm gương sáng giá, chứng tỏ là người tỵ nạn có thể hội nhập vào đời sống mới, trong khi vẫn giữ được nguồn gốc của quê hương mình.” Trong suốt thời gian hơn 25 năm này, Việt Dzũng vẫn tiếp tục có những hoạt động đều đặn, liên tục và bền bỉ để tranh đấu cho người tị nạn Việt Nam. Từ những buổi văn nghệ gây quỹ cho các con tàu với người vượt biển như Cape D’Anamur, chương trình SOS Boat People, vận động chống lại chương trình cưỡng bách hồi hương người tị nạn, tranh đấu với quốc tế tại Genève, Thụy Sĩ, tại Liên Hiệp Quốc…Có thể nói, bất cứ nơi nào có người tị nạn Việt Nam là có bước chân Việt Dzũng mang tiếng đàn, tiếng hát của anh để binh vực cho họ, sưởi ấm tấm lòng của họ, mang niềm tin yêu và hy vọng cho họ vượt qua những khổ cực, đau buồn và mất mát trên đường vượt biên. Anh đã có mặt hầu hết các trại tị nạn ở vùng Đông Nam Á để thăm viếng, ủy lạo đồng bào, giúp đở trẻ em không thân nhân và hàng ngàn công tác xã hội khác mà không hề biết mệt. Từ thành công đó, Việt Dzũng dời hẳn về California với ước vọng có cơ hội gần Cộng Đồng người Việt, hầu thăng tiến trong bước đường sáng tác nhạc Việt Nam. Thời gian đầu, Việt Dzũng làm báo, cộng tác cho tờ Người Việt, lúc đó là tuần báo, giữ mục song ngữ, giới thiệu lịch sử VN cho thế thệ trẻ tỵ nạn. Một thời gian sau, Việt Dzũng giữ chức vụ chủ bút cho tờ nguyệt san Nhân Chứng. Trong thời gian này, người Việt tại quận Cam chứng kiến sự phát triễn những cây viết mới tại hải ngoại, đó là các nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, Lê Giang Trần, thi sĩ Cao Đồng Khánh v.v. Dù rất thành công với tờ Nhân Chứng, Việt Dzũng khg quên nghệ thuật đầu tiên anh yêu thích đó là Âm Nhạc. Việt Dzũng – Nguyệt Ánh đi trình diễn thường xuyên cho cộng đồng người Việt khắp nơi trên thế giới. Tuyển tập ca khúc / Album “Kinh Tỵ Nạn” ra đời trong thời gian này và được cộng đồng đón nhận nồng nàn. Có hơn 100,000 băng đã được thính giả khắp nơi trên thế giới mua. Năm 1985, Viet Dzũng sản xuất băng nhạc tiếng Anh đầu tiên với tựa là “Children of the Ocean” (Con cháu của Đại Dương), gồm nhiều bài hát của chính anh, cùng với sự cộng tác của các nhạc sĩ người Việt, Hoa. Viêt Dzũng cũng là nhạc sĩ VN đầu tiên được các nhà phê bình tại các tờ báo lớn như tờ the Orange County Register, tờ Los Angeles Times, tờ Austin American Statesman, có bài báo đề cập đến. Tờ Austin American-Statesman viết: “Việt Dzũng là một nhạc sĩ tỵ nạn đã hội nhập được với đời sống mới nhưng không quên nguồn gốc của mình.” Bắt đầu thập niên 90, cộng đồng người Việt tại quận Cam đã trưởng thành mạnh mẽ. Khu tiểu Sài Gòn là một chốn du lịch cần phải thăm viếng khi người Việt khắp năm châu có dịp ghé qua miền Nam California. Chợ, các tiệm ăn, tiệm sách, dãy phố với các hàng quán tạp hoá, cũng như các tiệm thuốc Bắc, tiệm băng nhạc là nơi tập trung người Việt trong vùng vào dịp cuối tuần. Sinh hoạt báo chí mở rộng; Cộng đồng có tờ nhật báo “Người Việt”, cũng như vô số tờ tuần báo, nguyệt báo và các báo chợ. Những người Việt tỵ nạn đến từ năm 75 tính ra cũng gần 20 năm, các người Việt đến vào thời kỳ vượt biển Đông cũng được trên dưới 15 năm. Không những thế, số người tỵ nạn hàng năm tới quận Cam gia tăng đều. Với số lượng người Việt đông đảo như thế, sự thành lập của làn sóng phát thanh Little Saigon đã đến đúng lúc.
Năm 1993, Đài Little Saigon Radio bắt đầu chương trình phát thanh hàng ngày, và mời Việt Dzũng cộng tác. Việt Dzũng nghiễm nhiên trở thành xướng ngôn viên đầu tiên cho đài phát thanh hàng ngày tại quận Cam. Phải nói là VD đã cách mạng hóa lối phát thanh của đài Việt Ngữ. Trước đây tại Việt Nam, đài phát thanh có nhiều chương trình, từ âm nhạc, kịch nghệ, cho tới thi văn, sử ký, v.v. nhưng các xướng ngôn viên, các vị giữ đề mục giới thiệu chương trình một cách nghiêm trang. Việt Dzũng đã áp dụng lối trình bày chương trình theo các show Mỹ. Tại các đài phát thanh Mỹ, mỗi người Deejay có lối điều khiển, trình bày chương trình riêng biệt. Các chương trình phát thanh buổi sáng, không chỉ thuần vào một đề mục mà có thể là bất cứ chuyện gì . Ngoài phần giới thiệu nhạc, ca sĩ hay tác giả bản nhạc, các Deejay có khi mang những tin tức thời sự, tin tức “từ thành đến tỉnh” ra bàn. Tùy câu chuyện và tùy hứng, đôi lúc họ bàn tán nghiêm chỉnh, có khi lại pha trò, cười đùa, tạo một không khí vui nhộn, cởi mở. Các chương trình radio phải hay, lý thú, vì phải cạnh tranh nhau với số thính giả vào buổi sáng, thời gian thính giả nghe đài radio nhiều nhất. (Buổi tối mọi người thường xem truyền hình hơn là nghe đài radio.) Tại miền Nam California, chương trình phát thanh Việt ngữ đã có từ đầu năm 80, nhưng chỉ giới hạn vào tối thứ sáu và cuối tuần, trong một vài giờ đồng hồ mà thôi. Chương trình phát thanh hàng ngày là một mạo hiểm, và cộng đồng nao nức đón chờ sự mạo hiểm này. Cộng Đồng đã không thất vọng! Tiếng nói của Việt Dzũng mở đầu chương trình bằng lời chào đón thính giả bằng tiếng Anh rồi băng tiếng Việt, nhuyễn nhừ, ra dáng một anh xướng ngôn viên lành nghề không kém gì đài bạn. Nhờ hấp thụ hai nền văn hoá Việt Mỹ, lối nói chuyện của Việt Dzũng tự nhiên và cởi mở. Chương trình buổi sáng của VD đa dạng gồm ca nhạc, phỏng vấn nghệ sĩ, và những mẫu chuyện, từ nghiêm túc đến chuyện đó đây, linh tinh, lang tang…
Phải nói hai người xướng ngôn viên Việt Dzũng và Minh Phượng đã là những người tiên phong, làm bạn đồng hành cho rất nhiều người Việt làm việc tại tư gia, hay trên đường đi đến sở làm, và cho các thính giả lớn tuổi. Việt Dzũng đã tạo sự thân mật gần gũi giữa xướng ngôn viên – tức những người có tiếng tăm, tiếng nói – với thính giả. Ngoài thính giả lớn tuổi chỉ thích nghe đài phát thanh bằng tiếng Việt, chương trình đa dạng, vui nhộn của VD cũng đã lôi kéo được một số thính giả trẻ tuổi. Lối cải cách phát thanh này, về sau được các đài phát thanh bằng tiếng Việt bắt chước, ngay cả các chương trình Á Châu quốc tế như đài VOA và BBC cũng sửa đổi chương trình của mình cho phù hợp với thế hệ đời nay. Sau bốn năm với đài Little Saigon Radio, Việt Dzũng đã thành lập đài phát thanh Radio Bolsa. Chương trình cũng được phát thanh tại tỉnh San Jose và tại Houston, Texas. Cùng với chương trình phát thanh hàng ngày, Việt Dzũng còn hợp tác với các báo như Hồn Việt, và các báo tại các tiểu bang khác.
Ngoài ra, từ năm 1996, Việt Dzũng còn cộng tác với Asia Video. Anh làm MC cho các chương trình chủ đề, viết và giới thiệu các chương trình cùng các tài năng mới tại hải ngoại. Asia Video có một số khán giả đông đảo cạnh tranh với Thúy Nga Paris trong cộng đồng người Việt khắp nơi trên thế giới . Tuy Thúy Nga Paris có từ đầu những năm tỵ nạn và có tiếng với những chương trình live rất công phu và nghệ thuật nhưng Asia Video được tiếng giới thiệu và nâng đỡ các tài năng mới tại hải ngoại. Các ca sĩ Như Quỳnh, Phi Nhung, Trường Vũ, Lâm Nhật Tiến, Loan Châu, Sheila, Thanh Trúc đều bắt đầu sự nghiệp tại Asia. Hiện nay Asia là nơi dụng võ của các ca nhạc sĩ Trish Thùy Trang, Cardin Nguyễn, v.v… Asia Video đã sản xuất những chương trình chủ đề đầy tình người, không có chủ đích thương mãi nhưng lại rất thành công như Asia Video về “Người Lính”, vinh danh các chiến sĩ Cộng Hoà, Asia Video “Hành trình tìm Tự Do”. Trong video HTTTD, khán giả rất xúc động khi Việt Dzũng trở lại các đảo Phi Luật Tân, nơi người Việt thuyền nhân đã trải qua con đường gian lao để đến bến bờ tự do. Từ một anh chàng tuổi trẻ tóc dài, ca Nam Nhạc Sĩ Việt Dzũng, đã trưởng thành với cộng đồng. Dù đứng trên sân khấu, hay ngồi trong quán cà phê với bạn bè, Việt Dzũng với cây nạn gỗ, là một hình ảnh vui vẻ, hăng say với công việc. Anh không ngừng tranh đấu cho nhân quyền tại Việt Nam. Cộng Đồng VN hải ngoại biết đến Việt Dzũng không chỉ qua dòng nhạc đấu tranh, một thời gắn liền với tên tuổi của nữ nhạc sĩ Nguyệt Ánh, mà còn thân quen với một VD là xướng ngôn viên, cười đùa thoải mái với thính giả, và một VD là phóng viên nhà báo, hăng hái tường trình những biến chuyển liên quan tới Việt Nam, hay cộng đồng người Việt hải ngoại. Tuy vậy, đừng quên nhạc sĩ VD còn có những bản nhạc tình rất được giới trẻ yêu thích: Có Những Cuộc Tình Không Là Trăm Năm, Bài Tango Cuối Cùng, Thung Lũng Chim Bay, Và Em Hãy Nói Yêu Anh, Tình như cây Cà Rem …
Năm 1990, Việt Dzũng thành lập riêng cho mình Trung Tâm Việt Productions, chuyên sản xuất các CD nhạc với tiếng hát của anh và bằng hữu như các CD: Ru Em Sông Núi Đợi Chờ, Thánh Ca Vào Đời, Hùng Ca Quật Khởi, Quê Hương Và Em, Mình Ơi Đưa Em Về Quê Hương, Thắp Lửa Yêu Thương, Lên Đường, Bên Em Đang Có Ta, Tuổi Trẻ Về Nguồn, Hát Cho Tự Do, Thắp Lửa Tự Do, Trái Tim Ở Lại, Anh Vẫn Còn Thương, Vuốt Mặt, Bên Bờ Đại Dương… Với giọng hát nhẹ nhàng, anh chàng ca sĩ Việt Dzũng rất thích trình bày nhạc tình. Sau hai mươi năm hoạt động không ngừng nghỉ trên mọi lãnh vực và được nổi danh khắp nơi, được hàng triệu người ái mộ (nhứt là giới trẻ ở hải ngoại), nhưng cũng có lúc Việt Dzũng cảm thấy rất cô đơn. Anh đã từng bày tỏ cảm nghĩ của riêng anh trong một lần phỏng vấn năm 1995 với nhà báo Trường Kỳ như sau:“Nhìn vào đời sống nghệ sĩ, ai cũng cũng chỉ thấy những rực rỡ của ánh đèn sân khấu, của những tràng pháo tay và của nhữNg rộn rịp âm thanh. Đời sống của nghệ sĩ không phải chỉ có vậy. Còn có những giọt nước mắt âm thầm mỗi đêm, những đắng cay tủi nhục và những cám dỗ chập chùng đi kèm. Cá nhân Việt Dzũng không bao giờ muốn trở thành ca sĩ. Chỉ muốn làm một nhạc sĩ ghi lại những nỗi suy tư của một đời người, và những rung động mà mình bất chợt tìm thấy. Vì thế, nên khi nghe một ca khúc, khi thưởng thức một nhạc phẩm nào, hãy nghe bằng sự rung động của chính tâm hồn mình. Bạn sẽ thấy người nhạc sĩ đó đang mang trái tim của họ trải rộng cho bạn nhìn, như một tấm tranh vẽ. Có thể bạn sẽ bắt kịp những nét chấm phá trong tranh. Có thể bạn chỉ ơ hờ lướt mắt qua rồi thôi. Nhưng dù gì đi nữa, mỗi ca khúc hay mỗi bức tranh vẫn là một hiện diện trong đời sống. Và hãy cảm ơn sự hiện diện đó, vì nếu không cuộc đời sẽ chỉ là những vô nghĩa kéo dài. (Việt Dzũng trong “Tuyển Tập Nghệ Sĩ”, 1995). Thực ra, nỗi cô đơn ấy cũng chỉ thoáng qua mà thôi. Những dự án, kế hoạch vẫn được anh theo đuổi càng lúc càng nhiều, choáng ngộp. Việt Dzũng tâm sự là anh mong cho một ngày dài thêm 48 tiếng đồng hồ, thay vì chỉ có 24 giờ để anh có thể hoàn thành bao nhiêu công việc đang vây bủa lấy anh. Ngày tháng vẫn trôi nhanh, trôi nhanh. Những hoạt động của anh gần đây thì nhiều vô số kể. Chỉ nói riêng về sinh hoạt với Phong Trào Hưng Ca Việt Nam thôi, thì những lần công tác nổi bật nhất là:
-Phát động chiến dịch “Tưởng Niệm 50 năm Hiệp Định Genève (1954-2004)”, biểu tình trước trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Genève (Thụy Sĩ) ngày 3-4-2004
-Đại nhạc hội Cứu Trợ Nạn Nhân Bão Lụt Katrina tổ chức ở Houston (17.9.2005), sau chương trình “Chén Gạo Tình Thương” do Phong Trào Hưng ca phát động từ ngày 9.9.2005.
-Đại nhạc hội “Đêm Tình Thương” phối hợp với cộng đồng người Việt ở Dallas Fortworth va Trung Tâm ca nhạc Asia (tháng 9-2005)
-Chương trình văn Nghệ gầy quỹ cứu trợ nạn nhân cơn bão Katrina tổ chức ở Wichita.
-Những chương trình Đại Nhạc Hội gây quỹ giúp Thương Phế Binh VNCH ở khắp nơi ….
Trong những chương trình gây quỹ từ thiện và văn nghệ đấu tranh đó, Việt Dzũng đã đến với đồng hương bằng cung cách rất bình dị thân thương. Luôn luôn có những bạn trẻ vây quanh, tíu tít thăm hỏi, chụp hình chung với anh. Có những bà mẹ già vẫy tay gọi anh lại gần chỉ để được nắm tay anh, nói vài ba câu thăm hỏi với niềm rưng rưng cảm xúc. Việt Dzũng là một đóng góp tích cực và liên tục trong Cộng Đồng qua nhiều giai đoạn trong quá khứ. Chắc chắn VD sẽ tiếp tục việc làm của mình trong những năm tháng kế tiếp.
Trần Viết Minh-Thanh
.
Việt Dzũng trả lời nhà báo Trường Kỳ:
Nhạc phẩm nào viết ra cũng được coi là một đứa con, cho dù đứa con đó xấu xí, què quặt. Vì thế nên không có một tác phẩm nào ưng ý nhất. Tất cả đều ưng ý như nhau và tất cả cũng có những khiếm khuyết khiến tác giả không hài lòng. đã viết rất nhiều, trên 400 bài hát. Phổ biến nhất là những ca khúc về tỵ nạn trong hai tập tỵ nạn ca, ấn hành năm 1980 là tập Kinh Tỵ Nạn và Lưu Vong Khúc. Qua hai tập này, những nhạc phẩm đã nổi tiếng và được nhiều ca sĩ thu thanh là các ca khúc : ‘Một Chút Quà Cho Quê Hương’, ‘Lời Kinh đêm’, ‘Mời Em Về ’…Tất cả những sáng tác này được viết ra như một thôi thúc về những điều phải nói trong những năm lạc lõng của đời sống lưu vong nơi xứ người. Sau này ca khúc viết cho thân phận người tỵ nạn cũng được phổ biến nhiều. Số nhạc còn lại là tình ca, đã sáng tác nhiều, nhưng phổ biến giới hạn, và theo thiển nghĩ của tác giả là ‘chưa phải lúc’. Những nhạc phẩm đã được phổ biến cũng tạo thành công như các ca khúc : ‘Bài Tango Cuối Cùng’(Lệ Thu), Thung Lũng Chim Bay (Khánh Ly) và nhiều ca sĩ khác, ‘Khóc Ru đời Trinh Nữ’(thơ Nguyễn Bính/ – Ý Lan), Bên đời Hiu Quạnh (thơ Hoàng Ngọc Ẩn/- Lưu Hồng) vv…
Dũng 2
* Một Chút Quà Cho Quê Hương
Nhạc Và Trình Bày:
Việt Dzũng
 
Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá
Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay
Gởi về cho Mẹ dăm chiếc kim may
Mẹ may hộ con quê hương quá đọa đầy
Gởi về cho chị dăm ba xấp vải
Chị may áo cưới hay chị may áo tang
Gởi về cho em kẹo bánh thênh thang
Em ăn cho ngọt vì đời nhiều cay đắng
Con gởi về cho Cha một manh áo trắng
Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây
Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy
Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình
Con gởi về cho Cha một manh áo trắng
Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây
Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy
Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình …
Cha rủ cuộc đời trong trong tử tù chung thân
Gởi về Việt Nam khúc hát ân cần
Xin chúc yên lành trong giấc ngủ da vàng…
Lời Kinh Đêm
Sáng tác : Việt Dzũng
Lời kinh đêm ôi lời kinh đêm. Lời kinh buồn như tiếng mẹ thở dài. Ai có nghe thấu lời kinh khổ, Sao cúi mặt gục đầu ngủ quên. Thuyền mong manh ôi đời lênh đênh. Thuyền bấp bênh cuộc sống mơ hồ.. Lời kinh cầu từng ngày quen thuộc Lời mẹ buồn giữa tiếng Nam-mô. Thuyền trôi xa về đâu ai biết Thuyền có về ghé bến tự do. Trời cao xanh hay trời oan nghiệt. Trời có buồn hay trời chỉ làm ngơ. Trời chơ vơ ôi người bơ vơ. Người vẫn ôm mảnh ván rũ mục. Lời kinh cầu từng hồi nấc nghẹn. Lời mẹ buồn giữa tiếng Amen. Người buông xuôi về nơi đáy nước Người có mộng một nấm mộ xanh. Biển ngây ngô hay biển man rợ Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ.
Mời Em Về
Nhạc : Việt Dzũng
Tôi muốn mời em về Thăm lại Hà Nội xưa Cổ Ngư chiều đổ lá Trong mưa buồn lưa thưa…. Tôi muốn mời em về Thăm lại Saigon xưa Duy Tân chiều say nắng Uống môi nồng hương xưa. Tôi muốn mời em về Nhưng quê hương tôi quá xa Bên kia bờ Thái Bình bao la. Tôi muốn mời em về Nhưng chim đã gãy cánh…. Nhưng mây đã ngừng bay Cho tôi còn lại nơi này Tôi muốn mời em về Thăm lại căn nhà xưa Có Mẹ ngồi đâu đó Sợi tóc bạc đong đưa Tôi muốn mời em về Thăm lại phố phường xưa Những chiều trời mưa phủ Lời yêu nói sao vừa… Tôi muốn mời em về Thăm lại Saigon xưa Duy Tân chiều say nắng Uống môi nồng hương xưa… Tôi muốn mời em về Nhưng quê hương tôi quá xa Bên kia bờ Thái Bình bao la… Tôi muốn mời em về Nhưng chim đã gãy cánh Nhưng mây đã ngừng bay Cho tôi còn lại nơi này Tôi muốn mời em về Thăm lại căn nhà xưa Có Mẹ ngồi đâu đó Sợi tóc bạc đong đưa…. Tôi muốn mời em về Thăm lại phố phường xưa Những chiều trời mưa phủ Lời yêu nói sao vừa…
Về Đây Nghe Em
Nhạc : Trần Quang Lộc, Trinh Bày: Việt Dzũng
Về đây nghe em Về đây nghe em Về đây mặc áo the đi guốc mộc Kể chuyện tình bằng lời ca dao Kể chuyện mình bằng nồi ngô khoai Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới Và về đây nghe gọi tiếng xưa để nhớ trong tiếng vỡ bờ … Về đây nghe em Về đây nghe em Về đây thả ước mơ đi hát dạo Để chào đời bằng hạt sương mai Để bằng lòng ngọt ngào hấp hối Để hận thù người người lắng xuống Rồi tìm nhau như tìm xót xa Trong lúc lệ đã đầy vơi … Này hồn ơi lên cao lên cao Đem ánh sáng hân hoan trên trời Rọi vào đời cho ta kinh cầu yêu thương Này thịt xương ta chưa mang theo Khi ngã xuống mê man tủi hờn Và về đây nghe nhau thở dài trong đêm Về đây nghe em Về đây nghe em Về đây đứng khóc trên sông nước này Chở lòng người trở về quê hương Chở lòng minh vào dòng suối mát Chở thật thà vào lòng dối trá Rồi nhặt hoa xin tạ chút ơn Hạnh phúc khi đã gặp nhau Này hồn ơi lên cao lên cao Đem ánh sáng hân hoan trên trời Rọi vào đời cho ta tinh cầu yêu thương Này thịt xương ta chưa mang theo Khi ngã xuống mê man tủi hờn Và về đây nghe nhau thở dài trong đêm Về đây nghe emVề đây nghe em Về đây đứng khóc trên sông nước này Chở lòng người trở về quê hương Chở lòng minh vào dòng suối mát Chở thật thà vào lòng dối trá Rồi nhặt hoa xin tạ chút ơn Hạnh phúc khi đã gặp nhau
Dung 3
Nhạc sĩ Việt Dzũng: 32 năm sánh vai cùng NS Anh Bằng- DVD 71
Dung 4
LGT- Trong văn thư của Sở VH-TT-DL thành Hồ chống lại DVD Asia 71, đã có phần chỉ trích nặng lời với NS Việt Dzũng: “Việt Dzũng tố cáo đảng, nhà nước VN vi phạm nhân quyền và vận động đòi chữ ký hàng trăm ngàn người Việt Nam trên khắp thế giới cùng ký vào thỉnh nguyện thư gửi LHQ tố cáo VN vi phạm nhân quyền”. (Trích công văn – Dân Làm Báo VN.blogpost.com). Từ ngay khi có Trung tâm Asia ra đời, nghệ sĩ Việt Dzũng đã có nhiều đóng góp và đứng trong nhóm chủ trương. Sự kiện càng cấm đoán thì người dân càng tìm kiếm càng khiến cho vai trò các người có công đóng góp như Việt Dzũng càng được “sáng” hơn trên sân khấu. (NVTB)
 
Suốt hơn ba mươi lăm năm nay, Việt Dzũng là một cái tên quen thuộc với hầu hết mọi người Việt đang sinh sống ở hải ngoại, kể cả rất nhiều người dân trong nước cũng biết đến tên anh..Nhưng cho tới nay vẫn chưa có ai viết cho thật đầy đủ về người nghệ sĩ đa tài này và những đóng góp to lớn của anh trên nhiều lãnh vực khác nhau, nhứt là trong địa hạt ca nhạc và truyền thông đại chúng.
Bên cạnh đó, anh cũng thường xuyên là đề tài cho các tờ báo trong nước tấn công từ hơn hai chục năm nay, với những lời vu cáo, mạ lỵ nhằm dìm anh xuống đáy vực sâu.
Nhưng người nghệ sĩ và chiến sĩ tranh đấu cho nhân quyền này vẫn mạnh dạn vượt qua tất cả những khổ nạn chập chùng, oan khiên chất ngất và càng ngày anh càng được nhiều người yêu mến anh thêm. Cũng chính biến cố 30 tháng Tư năm 1975 cùng với sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam đã đưa Việt Dzũng rời xa quê hương mà cho đến nay chưa một lần nào anh đặt chân trở lại.
Cùng với 36 người chen chúc nhau trên một chiếc tàu nhỏ bé, mong manh, trên đó có một số dân biểu như DB Toại, một số Sĩ Quan Cục An Ninh Quân Đội, doanh gia Hải Nguyễn v.v.. rời Sài Gòn vào phút chót.Việt Dzũng và bà ngoại của anh đã vĩnh viễn rời xa gia đình và đất nước Việt nam. Sau 22 ngày trên biển khi không còn thức ăn, nước uống, cũng như phải chứng kiến biết bao nhiêu cảnh đau thương trên biển cả, tàu của họ mới cập được bến Singapore. Nhưng liền sau đó, tất cả lại bị chuyển qua một chiếc tàu khác và thẳng đường tới trại tị nạn Subic ở Phi Luật Tân. Chính những kinh nghiệm sống trên đường vượt biển tìm tự do này đã khiến cho anh sáng tác rất thành công các ca khúc để đời sau này, mà tiêu biểu nhất vẫn là “Lời Kinh Đêm” với những câu ca: … “Thuyền trôi xa … về đâu ai biết? Thuyền có về …ghé bến tự do? Trời cao xanh … hay trời oan nghiệt Trời có buồn … hay trời vẫn làm ngơ?… … Người buông xuôi về nơi đáy nước Người có mộng một nấm mồ xanh? Biển ngây ngô hay biển man rợ Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ
 
Chưa đầy 17 tuổi mà đã rời xa mái ấm gia đình, bỏ lại sau lưng tất cả những người thân yêu, bè bạn, mái trường yêu dấu với những sinh hoạt vui tươi của tuổi học trò. Chắc chắn là có những khoảnh khắc anh Nguyễn Ngọc Hùng Dũng chợt nhớ lại quãng đời niên thiếu ngập tràn kỷ niệm của mình, đã bỏ lại sau lưng tận bên kia bờ Thái Bình Dương. Từ nhỏ anh đã là một học sinh xuất sắc của trường Lasalle Taberd ở Sài Gòn, cũng như anh trai và đứa em trai kế của anh. Người chị lớn của anh thì đang du học bên Nhật Bản về ngành giáo dục. Ba của anh là bác sĩ Nguyễn Ngọc Bảy, cựu Dân Biểu của nền đệ nhị Cộng Hoà Việt Nam và cũng là Thiếu Tá Y sĩ trưởng Bộ Tổng Tham Mưu và Sư đoàn 5 QLVNCH. Mẹ của anh là giáo sư trường nữ trung học Gia Long ở Sài Gòn. Việt Dũng đã yêu thích âm nhạc từ khi còn rất trẻ và được các sư huynh ở trường Lasalle Taberd chỉ dạy rất tận tình. Trong lúc gia đình mong cho anh trở thành Bác sĩ để nối nghiệp cha, thì Việt Dzũng lại đam mê ca hát, văn nghệ văn gừng. Anh thường cùng các bạn học trình diễn ca nhạc ở những buổi văn nghệ liên trường.
Việt Dzũng đã từng chiếm giải nhất ở cuộc thi văn nghệ của trường Taberd và đại diện trường đi tham dự các buổi hát ủy lạo chiến sĩ VNCH, cũng như tham dự vào những đại hội nhạc trẻ khắp nơi cạnh Trường Kỳ, Nam Lộc, Jo Marcel, Tùng Giang, Đức Huy, Elvis Phương.v.v.. Đó là khoảng thời gian từ năm 1971 cho tới tháng tư năm 1975.
Trong thời gian ở trại Ft. Chaffee Việt Dzũng hoạt động không ngừng nghỉ, từ việc đón tiếp đồng bào tị nạn mới tới, sinh hoạt trong hội Hồng Thập Tự, hội USCC, cộng tác với tờ báo của trại, chương trình phát thanh của trại, Năm 1978, Việt Dzũng chính thức bước vào lãnh vực âm nhạc khi cùng một người bạn học chung trường tên là Vernon Larsen lập ban song ca để hát theo lối du ca (troubrador) của Mỹ, tên “Firebirds” (Chim Lửa). Đôi song ca này chuyên hát nhạc đồng quê của Hoa Kỳ (American country music). Việt Dzũng sử dụng tây ban cầm và cùng người bạn Mỹ đi trình diễn khắp nơi ở vùng Trung Mỹ, kể cả các club nhạc của dân địa phương. Nhiều người Mỹ đã tỏ ra rất ngạc nhiên khi thấy một thanh niên Á châu hát nhạc đồng quê rất thành thạo, trôi chảy nên đã dành cho anh thật nhiều thiện cảm. Cũng năm 1978 này, Việt Dzũng đoạt giải nhất về sáng tác nhạc country music tại cuộc thi Iowa Grand Old Orphy. Thật ngạc nhiên khi anh là người Việt Nam đầu tiên, mà cũng là người Á châu đầu tiên chiếm giải nhất về bộ môn sáng tác country music với bài hát hoàn toàn bằng Anh ngữ. Ngay sau đó, một hãng dĩa về country music đã mời anh cộng tác để thực hiện một Album nhạc đồng quê, nhưng anh đã từ chối vì muốn tiếp tục học ở Đại học theo ý muốn của song thân. Cũng trong năm này, Việt Dzũng bắt đầu sáng tác nhạc Việt với bài hát đầu tiên là “ Sau Ba Năm Tỵ Nạn Tại Hoa Kỳ”, viết về thân phận người dân xa xứ với những đau đớn chia lìa. Bài hát thứ hai là “Một Chút Quà Cho Quê Hương” đã trở thành một ca khúc lẫy lừng nhất của Việt Dzũng, được mọi người yêu thích cho đến tận hôm nay. Đó là thời gian người Việt tỵ nạn bắt đầu gửi quà về cho thân nhân ở quê nhà, chia sẻ những khổ đau chất ngất, đọa đày dưới chế độ mới như những lời ca sau đây: “Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay … Gởi về cho chị hộp diêm nhóm lửa Chị đốt cuộc đời trong hoang lạnh mù sương Gởi về cho mẹ dăm gói trà xanh Mẹ pha hộ con nước mắt đã khô cằn …. Con gởi về cho cha một manh áo trắng Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình…”
Nhớ lại những ngày đầu tiên làm quen với sinh hoạt văn nghệ của người Việt tha hương, nhân dịp tết Nguyên Đán 1979. Tại Hội Chợ Tết nơi đây, anh đã lên sân khấu, ôm đàn guitar trình bày hai ca khúc mà anh vừa sáng tác. Hát xong, nhìn xuống khán giả thì mọi người đã đầm đìa nước mắt và túa ra ôm ấy anh khi anh rời sân khấu. Việt Dzũng đã chinh phục bà con đồng hương nơi đây kể từ lúc này. Năm sau 1980, Khánh Ly đã chọn ba bài hát của anh là: “Lời Kinh Đêm, Mời Em Về, Một Chút Quà Cho Quê Hương” đem về California thâu vào băng nhạc “Một Bông Hồng Cho Người Ngã Ngựa” Ba bài hát này đã là những bài hát nằm lòng của hàng triệu người Việt nhiều năm sau đó (kể cả ở trong nước).
Năm 1980, là năm mà số người Việt bỏ nước ra đi cao nhất, Việt Dzũng đã cho ra mắt cuồn băng nhạc đầu tay “Kinh Tỵ Nạn” do Trung Tâm Nhã Nhạc tại Houston, Texas thực hiện. Ngay tuần lễ đầu băng nhạc này được đón nhận nhiệt liệt từ California, Canada, số bán sau đó đã lên đến cả trăm ngàn ấn bản. Lúc đó, Việt Dzũng đã quyết định chính thức di chuyển qua California sinh sống và sinh hoạt văn nghệ để có thể phát triển tài năng của anh nhiều hơn. Đầu tiên, anh được nhạc sĩ Ngọc Chánh mời hát cho đại nhạc hội ở Orange County và tiếp tục lưu diễn khắp nơi. Anh cũng đã hoàn thành cuốn băng nhạc thứ nhì tên là “Lưu Vong Khúc”.
Thời gian này tại Mỹ, Việt Dzũng đã lưu diễn hầu hết 50 tiểu bang, kể cả những tiểu bang có rất ít người Việt sinh sống. Tại Á châu, họ đã hát ở Nhật hơn ba lần, hát cho các phái đoàn ngoại giao, tòa tổng lãnh sự, sứ quán Mỹ ở nhiều nước như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, v.v… Nhưng chuyến lưu diễn ở Âu Châu của Việt Dzũng và Nguyệt Ánh phải coi là một chuyến lưu diễn lịch sử. Đã có hàng ngàn người Việt từ khắp nơi đón xe lửa đến gần địa điểm trình diễn để gặp thần tượng của họ. Ngay lúc đó, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam liền lên án Việt Dzũng và Nguyệt Ánh là hai kẻ phản động số một, tuyệt đối cấm phổ biến tất cả các nhạc phẩm của họ trong nước. Trong một phiên tòa sau đó, CSVN đã kết án tử hình khiếm diện hai nghệ sĩ này. Ngày 1 tháng Tư năm 1985, hai nghệ sĩ này đã kết hợp với những ca nhạc sĩ khác để thành lập Phong Trào Hưng Ca Việt Nam, dùng âm nhạc làm vũ khí đấu tranh. Cho đến nay, Phong Trào Hưng Ca Việt Nam vẫn còn hoạt động đều đặn.
Việt Dzũng vẫn tiếp tục có những hoạt động đều đặn, liên tục và bền bỉ để tranh đấu cho người tị nạn Việt Nam.
Từ những buổi văn nghệ gây quỹ cho các con tàu với người vượt biển như Cape D’Anamur, chương trình SOS Boat People, chống cưỡng bách hồi hương người tị nạn, tranh đấu với quốc tế tại Genève, Thụy Sĩ, tại Liên Hiệp Quốc… Có thể nói, bất cứ nơi nào có người tị nạn Việt Nam là có bước chân Việt Dzũng mang tiếng đàn, tiếng hát của anh để binh vực cho họ, sưởi ấm tấm lòng của họ, mang niềm tin yêu và hy vọng cho họ vượt qua những khổ cực, đau buồn và mất mát trên đường vượt biên. Anh đã có mặt hầu hết các trại tị nạn ở vùng Đông Nam Á để thăm viếng, ủy lạo đồng bào, giúp đở trẻ em không thân nhân và hàng ngàn công tác xã hội khác mà không hề biết mệt. Cũng vào năm 1985, Việt Dzũng đã cho ra đời một băng nhạc hoàn toàn bằng Anh ngữ “Children of the Ocean”. Đây cũng là album nhạc đầu tiên của người Việt hải ngoại bằng tiếng Anh. Các báo Orange County Register, Los Angeles Times, Washington Post đều có những bài viết khen ngợi cuốn băng này. Riêng tờ Austin-American- Stateman đã gọi Việt Dzũng là “người nghệ sĩ nổi tiếng nhất của cộng đồng người Mỹ gốc Việt, và là một tấm gương sáng giá, chứng tỏ là người tỵ nạn có thể hội nhập vào đời sống mới, trong khi vẫn giữ được nguồn gốc của quê hương mình.”
Về truyền thông, Việt Dzũng đã mở ra một cánh cửa khác để cho thấy một tài năng thiên phú và đa dạng ở anh. Sau một thời gian dài làm báo, tháng 7 năm 1993 Việt Dzũng được mời làm xướng ngôn viên chính cho chương trình phát thanh tiếng Việt đầu tiên ở Nam California, Cũng cần nhắc lại là trước đó các đài phát thanh đều làm chương trình theo kiểu ngày xưa, nghĩa là thâu thanh trước và tới giờ là cho phát thanh lên. Nhưng lần đầu tiên, Việt Dzũng đã tạo ra một phong cách mới: anh đưa ra những chương trình trực tiếp truyện trò cùng thính giả (talk back) trong buổi phát thanh. Nên không khí vui nhộn hào hứng và náo nhiệt. Sau này các đài phát thanh ở Mỹ và ngay cả ở bên Việt Nam cũng bắt chước theo lối này. Năm 1996 Việt Dzũng cùng các bạn đứng ra thành lập một chương trình phát thanh độc lập, đó là đài Radio Bolsa ở Nam California, Bắc California và Houston, Texas. Dĩ nhiên là với kỹ thuật phát thanh digital, mọi người trên khắp thế giới cũng có thể nghe được các chương trình phát thanh này trên mạng thông tin toàn cầu bất cứ lúc nào. (http://www.radiobolsa.com/)
Tuy công việc hàng ngày của anh thật bận rộn như vậy, nhưng ngoài thời gian làm việc ở đài phát thanh, Việt Dzũng còn chứng tỏ là anh có khả năng làm báo rất thành công. Kể từ năm 1980, anh đã cộng tác với tờ Người Việt (trang song ngữ Tuổi Trẻ). Sau đó anh về làm Tổng Thư Ký cho tờ Nhân Chứng năm 1982. Tờ Tay Phải (của Du Tử Lê) năm 1983. Về Houston làm Tổng Thư ký cho tờ Việt Nam Thương Mại năm 1988. Hầu như lúc nào Việt Dzũng cũng có những dự tính và dự án trước mặt, nhưng không làm sao có đầy đủ thời giờ để lo cho xuể. Chỉ nói riêng về mặt sáng tác âm nhạc thì Việt Dzũng đã sáng tác hơn 450 bài hát về đủ mọi thể loại. Những bài hát về tỵ nạn đã được phổ biến rộng rãi trong hai tập nhạc “Kinh Tỵ Nạn (1980) và “Lưu Vong Khúc” (1982). Những bài hát này được viết ra như một thôi thúc về những điều phải nói ra trong những năm lạc lõng của đời lưu vong nơi xứ người. Sau đó là các ca khúc đấu tranh, quang phục quê hương.
Nhưng nhiều nhất vẫn là tình ca, sáng tác rất nhiều nhưng chưa phổ biến hết. Những bản tình ca nổi tiếng của Việt Dzũng có thể kể ra như Bài Tango Cuối Cùng, Thung Lũng Chim Bay, Khóc Ru Đời Trinh Nữ, Bên Đời Hiu Quạnh, Có Những Cuộc Tình Không Là Trăm Năm, Và Em Hãy Nói Yêu Anh, Tình Như Cây Cà-Rem… Năm 1990, Việt Dzũng thành lập riêng cho mình Trung Tâm Việt Productions, chuyên sản xuất các CD nhạc với tiếng hát của anh và bằng hữu như các CD: Ru Em Sông Núi Đợi Chờ, Thánh Ca Vào Đời, Hùng Ca Quật Khởi, Quê Hương Và Em, Mình Ơi Đưa Em Về Quê Hương, Thắp Lửa Yêu Thương, Lên Đường, Bên Em Đang Có Ta, Tuổi Trẻ Về Nguồn, Hát Cho Tự Do, Thắp Lửa Tự Do, Trái Tim Ở Lại, Anh Vẫn Còn Thương, Vuốt Mặt, Bên Bờ Đại Dương, những ca khúc lời việt nổi bật như “Dấu chân của biển”… Sau hai mươi năm hoạt động không ngừng nghỉ trên mọi lãnh vực và được nổi danh khắp nơi, được hàng triệu người ái mộ, nhưng cũng có lúc Việt Dzũng cảm thấy rất cô đơn. Anh đã từng bày tỏ cảm nghĩ với nhà báo Trường Kỳ như sau: “Nhìn vào đời sống nghệ sĩ, ai cũng cũng chỉ thấy những rực rỡ của ánh đèn sân khấu, của những tràng pháo tay và của những rộn rịp âm thanh. Đời sống của nghệ sĩ không phải chỉ có vậy. Còn có những giọt nước mắt âm thầm mỗi đêm, những đắng cay tủi nhục và những cám dỗ chập chùng đi kèm.
Thực ra, nỗi cô đơn ấy cũng chỉ thoáng qua mà thôi. Những dự án, kế hoạch vẫn được anh theo đuổi càng lúc càng nhiều, choáng ngộp. Việt Dzũng tâm sự là anh mong cho một ngày dài thêm 48 tiếng đồng hồ, thay vì chỉ có 24 giờ để anh có thể hoàn thành bao nhiêu công việc đang vây bủa lấy anh. Ngày tháng vẫn trôi nhanh, trôi nhanh.
Những hoạt động của anh gần đây thì nhiều vô số kể. Chỉ nói riêng về sinh hoạt với Phong Trào Hưng Ca Việt Nam thôi, thì những lần công tác nổi bật nhất là: Phát động chiến dịch “Tưởng Niệm 50 năm Hiệp Định Genève (1954-2004)”, biểu tình trước trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Genève (Thụy Sĩ) ngày 3-4-2004 Đại nhạc hội Cứu Trợ Nạn Nhân Bão Lụt Katrina tổ chức ở Houston (2005), sau chương trình “Chén Gạo Tình Thương” do Phong Trào Hưng ca phát động từ 2005.
Trong những chương trình gây quỹ từ thiện và văn nghệ đấu tranh đó, Việt Dzũng đã đến với đồng hương bằng cung cách rất bình dị thân thương. Luôn luôn có những bạn trẻ vây quanh, tíu tít thăm hỏi, chụp hình chung với anh. Có những bà mẹ già vẫy tay gọi anh lại gần chỉ để được nắm tay anh, nói vài ba câu thăm hỏi với niềm rưng rưng cảm xúc. Nhưng tài năng đặc biệt nhất và nổi bật của anh là kể từ năm 1996 khi anh cộng tác với Trung Tâm Ca Nhạc Asia để làm MC hướng dẫn các chương trình video và đại nhạc hội trực tiếp thu hình. Anh cũng cộng tác với đài truyền hình SBTN trong việc biên tập là trưởng ban tin tức và đọc tin tức hàng ngày, cùng nhiều tiết mục khác cho chương trình phát hình liên tục 24 giờ mỗi ngày. Trước đó anh cũng đã từng nhiều lần làm MC cho các buổi đại nhạc hội, các buổi biểu tình, những lần gây quỹ từ thiện …Riêng ở các chương trình của Trung Tâm Asia thì anh đã hợp tác viết thuyết minh và giới thiệu cho các chủ đề, các tài năng mới trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Vì từ lâu nay Trung Tâm Asia là một trong hai trung tâm hàng đầu về ca nhạc ở hải ngoại được tiếng là luôn luôn có nhiều sáng kiến mới lạ và nâng đở cho những tài năng trẻ tuổi trong lãnh vực ca hát. Rất nhiều chương trình Video của Asia có các chủ đề đầy tình người, không nhằm mục đích thương mại, nhưng rất thành công như “Người Lính”, “Những Tình Khúc Thời Chinh Chiến”, “Tình Ca Anh Bằng”. Asia video thật giá trị như “Âm Nhạc Vòng Quanh Thế Giới” (phát hành 27/2/2004), “Tiếng Hát Trái Tim” 2004), “Mùa Hè Rực Rỡ 2005” (2005). Nhưng đặc biệt nhất là video “Hành Trình Tìm Tự Do”(2005), khán giả đã thực sự xúc động khi thấy Việt Dzũng trở lại các đảo tị nạn ở Đông Nam Á để làm phóng sự video, gợi nhớ cảnh vượt biển của những thuyền nhân tỵ nạn liều chết ra đi tìm tự do ngày xưa. Cũng chính những chương trình video này, khi được chuyển về Việt Nam cùng với các DVD khác như “Cuộc Đổi Đời Bi Thảm, Triệu Đóa Hồng Cho Người Phụ Nữ VN, Cuộc Khổ Nạn của Người VN (Hollywood Night – Trần Thăng), và Asia 50 “Vinh Danh Nhật Trường” và Asia 51 “Nhạc Vàng, Tình Khúc Sau Cuộc Chiến” … đã khiến nhà cầm quyền Việt Nam tức tối, nhìn thấy Việt Dzũng vẫn xuất hiện trong vai trò làm MC. Nên vào ngày 18/9/2006 tờ báo Công An Thành Phố HCM từng đầu đăng hai bài viết với đủ thứ ngôn từ hạ cấp nhằm mạ lỵ, phỉ báng và bôi nhọ cá nhân Việt Dzũng thật nặng nề. Có thể nói lần này là lần anh bị những người Cộng Sản VN “đánh” nặng nhứt từ trước đến nay.
Việt Dzũng chỉ im lìm, không lên tiếng biện minh hay viết bài đính chính. Anh vẫn âm thầm tiếp tục thực hiện những dự án và càng hăng say hoạt động. Anh vẫn tiếp tục con đường tranh đấu cho nhân quyền và quang phục quê hương trong niềm tin rằng chế độ Cộng sản sẽ cáo chung trong một tương lai rất gần.
Duy-Khiêm (TT Asia Musics Enterntaiment) www.NVnorthwest.com
bugle2

Xin Thành Kính Phân Ưu

- Blog Thiện ngôn - (Admin. & Mod.)

Thứ Năm, 12 tháng 12, 2013

LS. Lê Quốc Quân THẮNG KIỆN CS Hà Nội !

TIN VUI: LS. LÊ QUỐC QUÂN THẮNG KIỆN TẠI LHQ



- Tại tòa án công cụ của Hà Nội thì họ muốn xử sao thì xử, chứ sang tới Liên Hiệp Quốc thì chính nghĩa luôn thắng!

LHQ vừa công bố quyết định về 2 vụ đã được đệ trình LHQ: Ls. Lê Quốc Quân và 17 thanh niên yêu nước từ Vinh. 

Quyết định của LHQ cho rằng Hà Nội đã vi phạm các quyền căn bản của Ls. Lê Quốc Quân. Họ bác bỏ cáo buộc về trốn thuế và cho rằng đó chỉ là cớ để trừng phạt Ls. Quân vì đã hành xử quyền tự do ngôn luận của mình. 

Kết luận rằng việc giam giữ Ls. Lê Quốc Quân là tùy tiện và vi phạm luật quốc tế, LHQ kêu gọi Hà Nội thả Ls. Quân ngay lập tức và đền bù thiệt hại đã gây cho anh.


*

12 tổ chức nhân quyền đã liên tục vận động cho Ls. Lê Quốc Quân từ ngày anh bị bắt vào tháng 12 năm ngoái. Mời bạn xem thông cáo của họ: 
---oo---

UN Rights Tribunal Calls for Release of Vietnamese Blogger Activist
2 December 2013

The detention of Vietnamese blogger, lawyer and human rights activist, Le Quoc Quan, has been condemned by a United Nations human rights tribunal as violating his right to freedom of expression and his right to a fair trial.

The UN Working Group on Arbitrary Detention, a tribunal set up under the UN’s Human Rights Council, found that Le Quoc Quan had been targeted for his work as an activist and as a blogger and called for his immediate release or for his conviction to be reviewed by an independent court. It also recommended that Viet Nam should pay damages to Le Quoc Quan for his arbitrary detention.

While Le Quoc Quan had been imprisoned for alleged tax evasion, the tribunal found that his detention might be “the result of his peaceful exercise of the rights and freedoms guaranteed under international human rights law” and “related to his blog articles on civil and political rights.” The tribunal added that “given Mr Quan’s history as a human rights defender and blogger, the real purpose of the detention and prosecution might eventually be to punish him for exercising his right [to freedom of expression] and to deter others from doing so.” 

The Working Group’s condemnation is in response to a petition filed by the Media Legal Defence Initiative, Media Defence-Southeast Asia, Lawyers for Lawyers, Avocats Sans Frontières, Front Line Defenders, Access, English PEN, Reporters Without Borders, the Electronic Frontier Foundation, ARTICLE 19, Index on Censorship and Lawyers’ Rights Watch Canada. 

These organisations now call on the government of Viet Nam to comply with the decision of the United Nations Working Group and release Le Quoc Quan immediately. They reiterate that the conviction and ongoing detention of Le Quoc Quan are arbitrary and violate his rights to freedom of expression, freedom of association, a fair trial and his rights as a human rights defender.

The decision of the Working Group (A/HRC/WGAD/2013) can be downloaded from the website of the Media Legal Defence Initiative by clicking here. 

Notes to editors:

· Le Quoc Quan was arrested on 27 December 2012 on baseless charges of tax evasion. Following his arrest, he was held incommunicado and denied permission to see his lawyer for two months. Repeated requests by his family to visit him were also denied. Mr Quan first saw a family member at his trial on 2 October 2013, at which he was convicted of evading corporate income tax and sentenced to 30 months imprisonment and a fine of 1.2 billion dong (approximately USD 59,000). He has appealed this decision.

· The Vietnamese government has long persecuted Le Quoc Quan for his human rights work. In 2007, after representing numerous victims of human rights violations, he was disbarred from practicing as a lawyer on suspicion of engaging in “activities to overthrow the regime”. He has been arrested several times for continuing his human rights advocacy. Following an attack by unknown assailants in August 2012, he was hospitalised. The attack was never investigated by the police.

For more information, please contact:
· Nani Jansen, Senior Legal Counsel, Media Legal Defence Initiative:
· Gail Davidson, Executive Director, Lawyers’ Rights Watch Canada
· Adrie van de Streek, Executive Director, Lawyers for Lawyers
· Jochai Ben-Avie, Policy Director, Accessnow.org
· HR Dipendra, Director, Media Defence – Southeast Asia
· Eva Galperin, Senior Policy Analyst, Electronic Frontier Foundation (EFF)
· Benjamin Ismail, Head Asia-Pacific Desk, 
· Mary Lawlor, Executive Director, Front Line Defenders: 
· Cat Lucas, Writers at Risk Programme Manager, English PEN
· Nathalie Muller Sarallier, Avocats Sans Frontières Network
· Kirsty Hughes, Chief Executive, Index on Censorship:
· Thomas Hughes, Executive Director, Article 19:

Thứ Ba, 10 tháng 12, 2013

một nhận xét về Tổng Thống Nga,Vladimir Vladimirovich Putin

Putin, một 'Sa' hoàng mới

Vladimir Fedorovski                                                                                  
Putin, một Sa hoàng mới
 
Lời người dịch:
.
Vladimir Fedorovski là một nhà ngoại giao Liên Xô. Trong những năm 70, ông phụ tá Brejnev trong những cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo Ả Rập. Từ năm 1985 đến 1990 ông được cử làm cố vấn về ngoại giao cho Gorbatchev trong thời gian perestroika và glasnost. Năm 1990, bất đồng với chính sách tiền hậu bất nhất của Gorbatchev, ông bỏ ngoại giao, làm phát ngôn viên cho " Phong trào Cải tổ Dân chủ ", chống lại cuộc đảo chính Cộng sản năm 1991.
Năm 1995 ông lấy quốc tịch Pháp và trở thành một nhà văn viết tiếng Pháp xuất bản nhiều sách nhất ở Pháp. Sách ông được dịch ra 28 thứ tiếng. Ông mới xuất bản cuốn " Chuyện những Sa hoàng ". Trong cuốn này ông giải mã những bí mật của các vị vua chúa nước Nga thần thánh, bắt đầu từ Ivan người Khủng khiếp (Ivan le Terrible) đến Pie Đại đế, Catơrin đệ Nhị, Nicola đệ Nhị và người cuối cùng là Putin được ông coi là một Sa hoàng mới, người muốn làm sống lại nước Nga hùng cường. Trong cuốn sách này, ông Fedorovski phân tích và chứng minh những động lực bí ẩn của vị chủ nhân điện Cẩm Linh để kết luận là với vị sa hoàng mới này, nhiều bất ngờ đang chờ đợi người Tây phương.
.
Ngày 28 tháng Hai vừa rồi, cuộc gặp gỡ giữa François Hollande và Putin được diễn ra trong một bầu không khí băng giá : vị tổng thống Nga không nhượng bộ một chút nào về sự hỗ trợ của ông đối với chế độ Syri và không một hợp đồng thương mại nào được ký kết. Chuyện đó có gì là lạ khi mà nước Nga vẫn là nguồn cung cấp vũ khí chính cho Bachar el-Assad và cái chuyện lố bịch Depardieu (Lnd: một diễn viên điện ảnh danh tiếng Pháp được Putin trọng vọng và cho lấy quốc tịch Nga) vẫn là hàn thử biểu đo lường chính xác nhất nhiệt độ tâm lý giữa 2 vị tổng thống này ? Lại đúng vào năm 2013 kỷ niệm 400 năm triều đại Nga hoàng Romanov, 
Mốt Cu thời đại mới chả mong chờ gì những thiện ý đến từ Pari : Putin chả coi ra cái quái gì những lo nghĩ nhân đạo của các người thuộc đảng Xã hội Pháp. Còn những thỏa ước về kinh tế giữa 2 nước : nếu trước những năm 2000, Putin còn có mục đích làm sao cho nước Nga lấy lại được chỗ của mình trên bàn cờ quốc tế bằng cách đổi  dầu khí lấy kỹ thuật Tây phương, từ đó đến giờ, Putin trở nên cứng rắn hơn khi suy luận là : "Chúng ta đã cố gắng nghĩ đến lợi lộc Tây phương trong sự đổi chác, nhưng chúng ta đã không được trả lại bằng một trân trọng nào và, đặc biệt là, hệ thống khiên chống tên lửa nhằm chúng ta vẫn được bảo tồn. Vì vậy chúng ta nên coi sự hợp tác chiến lược với Tây phương là hoàn toàn vô tích sự."
.
Trong bối cảnh châu Âu suy nhược, Putin không thấy có một đối tác nào chắc chắn hơn là Đức, đồng thời Putin cũng thấy tốt hơn là nên cùng Trung Quốc xây dựng một thế giới khác. Để đạt được mục đích đó, Putin thấy nên lợi dụng lại những đồng minh cũ của Liên Xô hay, ít nhất là, chơi lại lá bài một vài nước Hồi giáo, một phần cũng để ngăn những nước này có những đường lối chính trị chống Nga quá triệt để. Nhưng đó cũng lại chính là những tham số có thể đưa tới hai cái sai lầm : Con đường chính trị mới này sẽ làm Nga và Tây phương xa cách nhau thêm, nhất là từ trước tới nay Tây phương vẫn chả bao giờ coi Nga là đồng minh cả. Tây phương sẽ vẫn tiếp tục đánh giá thấp mối hiểm nguy đến từ sự tan vỡ lớn lao có tính cách lịch sử giữa 2 phái Hồi giáo Shiít và Sunít đang thành hình trong thế giới Hồi giáo. Đó cũng là một định đề được vị chủ nhân điện Cẩm Linh đặt ra trên nền tảng của kinh nghiệm 13 năm nắm quyền hành tuyệt đối, trên cá tính của mình, trên con đường sự nghiệp của mình, trên sự suy nghĩ về lịch sử của mình. Sự suy nghĩ này được Putin coi là cốt lõi của mọi hành động chính trị tiếp diễn.
.
Ai chính thật là Putin ?
.
Cảm tưởng tức thời của tôi vào đầu những năm 1990, khi tôi có dịp quan sát Putin trong một buổi gặp riêng ở Saint-Petersbourg, Putin là người muôn mặt, hay nói đúng hơn, Putin giấu mặt trong nhiều mặt nạ theo truyền thống Byzantin của các vua chúa Nga. Cặp mắt, có khi lờ lững, có khi linh động, cặp lông mày cau lại hay cặp môi mấp máy một cách thiếu kiên nhẫn chứng tỏ một ý chí sắt đá, nhưng cũng nhiều khi lượn lẹo, trơn tuột, khó bắt nắm được. Putin đã tập chơi nhiều vai trò, tuyệt vời trong nghệ thuật đánh lạc hướng. Nhưng có một cái bất di bất dịch :  Putin không phải là một người chịu sống hạnh phúc trong an phận.
.
Giống như Nicola II ngày xưa, Putin có cái tài là làm những người đối thoại tưởng mình cũng thuộc về phe họ - Putin như một tấm gương mọi người soi vào đều thấy bóng mình - Putin khi cần cũng có thể bắt chước điệu bộ của người mình đối thoại, lấy lại cử chỉ, cách cử động  chân tay, cách nói năng của họ. Kỹ thuật này, được hoàn thiện trong những năm học tập dưới mái trường KGB, đã khiến Putin có thể nhập hình hài mình trong mọi khuôn, hòa mình với mọi chính kiến, chế ngự đủ mọi màu sắc chính trị, đi nước đôi một cách dễ dàng, cáng đáng cùng một lúc, không bao giờ thành vấn đề, cả quá khứ của Liên Xô lẫn lịch sử của đế quốc Sa hoàng : Putin vừa là người quốc gia, vừa là người quốc tế, vừa là người tiến bộ, vừa là người trọng quá khứ, vừa là người theo chủ nghĩa kinh tế nhà nước, vừa là người theo kinh tế phóng khoáng. Putin biến sự khẳng định của mình thành một luận chứng trên hết mọi luận chứng khi quả quyết là dưới sự cầm quyền của mình, nước Nga đã trở thành một nước "giàu mạnh và được tôn trọng ". 
.
Cá tính hai mặt đã in sâu vào Putin từ khi còn trẻ. Sinh ngày 7 tháng 10 năm 1952 ở Leningrad, con một người thợ gương mẫu, cháu một người làm bếp cho Lênin, Putin là một học sinh xuất sắc nhưng ít giao thiệp với bạn bè, rất giỏi Nhu đạo, kín đáo nhưng đầy ý chí, tuy mơ mộng trở thành một gián điệp phục vụ KGB, nhưng cũng có một đam mê đặt biệt làm bộc lộ một bình diện khác của con người : Putin, sinh trong một thành phố còn mang đầy dấu ấn Nga Hoàng, bị quyến rũ bởi cái nơi chốn ảo thuật này với những ngôi nhà màu đất son, màu hồng, màu xanh da trời, xanh lá cây hay màu xám, với phối cảnh những lâu đài, những nhà thờ rộng lớn mênh mông, những con kênh như giải ngân hà và những đêm trắng mặt trời không ngủ. Khi còn ở nhà trường,  Putin đã có ý dò hỏi tìm mọi cách để được chấp nhận vào các cơ quan mật vụ nhưng người ta nói nên ghi tên học luật trước và chỉ đến năm 1975, sau khi tốt nghiệp đại học, Putin mới được KGB tuyển lựa vì là một trong số những sinh viên xuất sắc nhất. Trong thời gian phục vụ KGB, Putin đã giữ một kỷ niệm quá tốt đẹp và cho KGB là tinh túy của đất nước, bảo vệ quyền lợi tối cao của đất nước. Nằm trong chương trình đào tạo của KGB là : làm sao luôn luôn giữ được bình tĩnh, quán thông nghệ thuật che giấu và dàn cảnh, biết nói 2, 3 giọng điệu khác nhau. Những điệp viên KGB có văn hóa chính trị riêng, có tiếng lóng riêng, và ngay cách pha trò cũng được mã hóa để chỉ cười với nhau. Đó là cả một cấu trúc tinh thần, cả một trạng thái tâm lí đã bị khắc sâu dấu ấn của một nền văn hóa mật vụ, trong đó cái gọi là dân chủ không bao giờ được kể đến. Một điệp viên đã nói rõ ràng : " Đối với chúng tôi, không nơi nào trên trái đất có dân chủ. Chỗ nào cũng chỉ là trò giật dây. Chỉ có giật nhiều hay giật ít.."
.
Putin khi còn trẻ hay nhắc lại Ivan người Khủng khiếp (Ivan le Terrible) hay Pie đệ Nhất và cho những nhân vật này là tượng trưng của vĩ đại và ý chí. Cùng hàng với những Sa hoàng này, Putin thêm vào KGB và quân đội và cho những lực lượng này là những kế thừa vẻ vang của nước Nga. Bởi vậy không lạ gì mười lăm năm sau, năm 1991, cùng với thượng cấp của Putin khi đó là Anatoli Sobtchak, thị trưởng Leningrad, thuộc phái Canh tân, Putin tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý để Leningrad lấy lại tên cũ; Cuộc trưng cầu dân ý này được hiểu như là một sự phủ nhận chế độ cộng sản và như là một bước đi về phía Âu châu. " Đó là thời kỳ mà Putin biểu lộ một cách công khai sự tha thiết của mình đối với quá khứ Sa hoàng ". Anatoli Sobtchak nói với tôi như vậy. Người chủ nhân tương lai của điện Cẩm Linh  rất thích vị Sa hoàng có óc canh tân là Alexandre II và nhất là vị thủ tướng của Nicola II, Piort Stolypine, người đề xướng chính sách " thay đổi trong trật tự ". Putin lấy câu này làm phương châm của mình và câu này cũng là công thức gối đầu giường của ông trùm KGB nổi tiếng, Iouri Andropov, một trong những ông thày tư tưởng của Putin. Khi Putin lên cầm quyền đầu năm 2000, Putin áp dụng công thức này : Trở thành một Sa hoàng mới, Putin đuổi bọn "quí tộc" (boyards) mới, bỏ tù những tay đầu xỏ như Mikhail Khodorkovski, chủ tịch hãng Ioukos, người giầu nhất nước Nga, hay đuổi ra khỏi nước. Thông điệp của Putin rất rõ ràng : " Các ông làm theo ý của điện Cẩm Linh thì người ta sẽ quên cách các ông làm giầu ra làm sao trong thời gian lộn xộn, còn nếu các ông vẫn muốn  chõ mũi vào chính trị thì các ông sẽ tự gánh lấy mọi hiểm nguy đến với các ông... " Bằng cách xuyên tắt qua chính sách tập trung hóa để các cơ quan mật vụ đặt cán bộ trong toàn thể các cơ cấu nhà nước, vị tổng thống mới của Liên bang Nga đã song song tái lập lại chế độ chuyên chế thời Sa hoàng.
.
Sự sống lại của đế quốc
.
" Dân tộc Nga có truyền thống rất lâu dài về những vị Sa hoàng hùng mạnh ", Tổng thống Putin tuyên bố như vậy. Đúng năm nay 2013, năm kỷ niệm triều đại Romanov, Putin chơi một cách tinh vi lá bài đế quốc Nga khi cho Staline là một tượng trưng của nước Nga trật tự và vĩ đại - Putin đã làm như vậy trong dịp lễ kỷ niệm lần thứ 70 trận đánh Stalingrad - Putin coi Staline, người chiến thắng Đức Quốc Xã, như một Sa hoàng đỏ, như một thừa kế của Sa hoàng Ivan người Khủng khiếp. Lấy đế quốc Sa hoàng làm mẫu mực, Putin, với óc độc đoán vẫn còn hận Tây phương và đổ lỗi cho Tây phương đã làm đế quốc Liên xô sụp đổ. Vì vậy mà mọi mô hình dân chủ đến từ phương Tây - bắt đầu bằng tự do phát biểu, minh bạch trong áp phe... đều bị đập tan. Putin và bè phái của mình trở lại cách suy nghĩ máy móc thời Nga hoàng là " chỗ nào cũng có kẻ thù và nước Nga là một thành trì bị bao vây tứ phía ". Vì vậy mà luôn luôn được lập đi lập lại những lời tố cáo " âm mưu của Mỹ ", những mưu toan của các tay đầu xỏ và những gián điệp Tây phương, đồng lòng với nhau chia chác kho tàng của đế quốc Nga. Trong bóng tối mờ ám, phe cánh Putin nắm hết mọi ngành : dầu khí, kỹ nghệ vũ khí và viễn thông, những mỏ vàng, những kênh truyền hình, Ngân hàng Trung ương, Quốc hội, quân đội, mật vụ, công an và các miền trong đất nước. Chính ngay Metvêđep, trong cương vị Tổng thống từ năm 2008 đến năm 2012, cũng chả bao giờ thật sự được chút tự lập. Đặc trưng của chuyên chế : giữa bộ ba : điện Cẩm Linh, giới cựu điệp viên KGB và Giáo hội Chính thống, quyền lợi đan xen lẫn nhau đến độ có thể nói đa số những kẻ chơi lá bài poke gian lận này đều cùng một bọn với nhau. Quyền hành theo chiều dọc từ trên xuống dưới được Putin lập ra, đặt cơ sở trên sự liên minh bộ ba này : những ai chống lại đều bị đưa ra cho toàn quốc phỉ nhổ, nhân danh quyền lợi tối cao của đất nước. Lẽ ra sự sụp đổ của chính quyền trước phải đem đến tự do, thì chúng ta lại chứng kiến sự toàn thắng của các phương pháp truyền thống được các triều đình Sa hoàng sử dụng : Đầu độc tư tưởng. Lạm dụng luật pháp gán ghép chuyện này với chuyện kia để kết tội. Làm săng - ta đe dọa tố cáo, phát giác. Sử dụng số tiền khổng lồ đến từ dầu khí để thực hiện những âm mưu trong bóng tối kiểu byzantin, ám sát, thủ tiêu. Sự khôn khéo tột bực của Putin là lấy hình ảnh đế quốc Nga làm tượng trưng để đẩy lui hàng chục năm ngày tới của Dân chủ. Putin biết trở về nguồn (quốc gia-chủng tộc) ở từng sâu nhất trong tâm hồn mỗi người Xlavơ để áp đặt quyền hành của mình. Cũng như những người phiêu lưu khoa học muốn làm sống lại những con đi-nô-zo bằng cấy lại DNA, dự kiến của Putin là tái lập lại đế quốc Nga. Putin luôn luôn bị ám ảnh bởi công trình to lớn này và muốn thực hiện nó theo phương pháp của mình : đi từng chặng một, không có những chuyển động bất thần.
Người ta còn nhớ câu châm ngôn của Putin : " những ai không nhớ Liên Xô là những kẻ không tim, nhưng những ai còn luyến tiếc Liên Xô là  những người không có trí thông minh ." 
Khi người ta hỏi có những quyết định ngày trước bây giờ nếu có thể sửa lại, Putin có sửa không, Putin trả lời : " Không.. Nói thật, khi tôi nhìn lại quá khứ, tôi thấy tổng kết những quyết định từ trước tới nay của tôi đã cho phép tôi còn giữ được quyền hành. "
Putin trong ý nghĩ còn trù tính phải tiếp tục cầm quyền 10 năm nữa mới có thể chế ngự được những thách đố khổng lồ để tái lập lại những cơ cấu nhà nước bị phá hủy trong thời gian lộn xộn hậu cộng sản. Người ta thấy ở đây cây cầu lịch sử được vị Tổng thống Liên bang Nga lập ra khi tự coi mình là hóa thân của vị vua đầu tiên của triều đại Romanov, Misen đệ Nhất, cháu của Nữ Sa hoàng Anastasia và con của Fedor, được rước về làm Sa hoàng từ tu viện Ipatiev năm 1613, trong lúc còn đầy những cuộc phân tranh. Triều đại Romanov này kéo dài đến tận Cách mạng 1917. Đó cũng là định mệnh của Putin được Chúa lựa chọn để cứu tổ quốc của Putin sau thời kỳ hậu cộng sản - Ảo ảnh, hay là chiến thuật bí mật của ông chủ điện Cẩm Linh hiện thời...
.
Liên minh giữa ngai vàng và bệ thờ
.
Một sự giống nhau nữa giữa Tổng thống Putin và các vị Sa hoàng là sự trọng vọng Ki Tô giáo. Là người Ki Tô hữu theo chủ nghĩa Sa hoàng, Putin coi việc công cộng không phải đặt trên nền tảng một sự đối đầu giữa (các đảng) đa số và đối lập, mà là trên ý tưởng đồng tâm và cùng chung một chính nghĩa. Putin coi đời sống dân chủ ở Tây phương chỉ là một trò chơi : " người ta chơi trò dân chủ chỉ cốt để làm vui khán giả. " Putin cho giới đầu sỏ kinh tài Âu - Mỹ còn mạnh thế hơn giới đầu xỏ ở Nga nhiều : khi mà điện Cẩm Linh cố bịp miệng giới đầu xỏ này thì các nước Tây phương mỗi ngày một thêm phụ thuộc sức mạnh của đồng tiền.. Cũng như khi đưa ra đường lối chính trị ở Siri, Putin tự đặt mình trong diễn luận của các vị Sa hoàng là phải hỗ trợ những người ki Tô giáo Phương Đông đang bị Tây phương vì lợi lộc bỏ rơi khi hỗ trợ một cách mù quáng những nhóm quá khích Hồi giáo.
Thực chất của quyền hành ? Tổng thống Putine tạo lại cho dân tộc Nga một căn cước mới dựa trên những dấu vết của một dân tộc đã xây dựng 2 đế quốc - Sa hoàng và Sô Viết - Dân tộc này đã từng bị pha loãng trong căn cước Sô Viết, nhưng lấy lại được sức lực trong chữ  "Trung"  đối với Nhà nước - Một khái niệm xuất phát từ giữa thế kỷ thứ XIX với một quyền hành trung ương, một cơ chế hữu hiệu trong sự truyền ngôi, và sự hiện diện của một lãnh đạo quyền uy. Khái niệm này cộng với ảnh hưởng của đạo Chính thống đã trở thành hệ tư tưởng đầu tiên cho nước Nga hậu Sô Viết.  Như vậy đã được kiến tạo một trục quyền hành giữa điện Cẩm Linh của Putin và Giáo hội Chính thống Nga giống như dưới thời nhũng Sa hoàng Romanov đầu tiên, vị Giáo trưởng cũng là hoa tiêu phụ.
.
Giống Putin, Giáo trưởng Kyrill cũng sinh trưởng ở Leningrad và cững từ thiên hà KGB ra. " Không một thày tu nào muốn trở thành giám mục mà không từ KGB mà ra ",  cựu đại biểu Quốc hội Gleb Yakounine chẩn đoán như vậy. Ông này là một thày tu hoàn tục đã đọc được tài liệu lưu trữ của KGB khi Liên Xô sụp đổ. Dưới tên mã hóa "Mikhailov", Kyrill đã bắt đầu hoạt động cho KGB từ đầu những năm 1970 trước khi được cử làm đại diện Giáo trưởng tại Genevơ. Ông này rất thích phong cảnh Thụy Sĩ và xe hơi loại chiến cho tới một bữa, chạy quá mau trên một con đường núi, xe BMW của ông bị đụng vào sườn núi. Cùng trong xe có một đại tá KGB và người con trai của ông này. Người này bị gẫy xương bả vai. Kyrill vội vã trở về nước và con đường sự nghiệp được lên nhanh như diều. Được lên hàng Tổng giám mục năm 1991, được bầu làm Giáo trưởng ngày 17-1-2009 thay thế Giáo trưởng Alexis II và được tôn phong làm Giáo trưởng Mốt Cu và toàn thể nước Nga  ngày 1 tháng Hai 2009.
Hiện bây giờ không thể chối cãi, Kyrill là một diễn viên chính trị có uy tín lớn lôi kéo được nhiều người và là một quân bài chủ của Putin; " Đừng nghe những kẻ khích động, hãy trở về nhà và cầu nguyện... Quyền con người chỉ là một cớ được bịa ra để nhục mạ những giá trị quốc gia ", giáo trưởng Kyrill tuyên bố như vậy trên đài truyền hình trước ngày có những cuộc biểu tình chống gian lận trong cuộc bầu Quốc hội tháng Hai năm 2012. Sau hết, sự liên minh giữa ngai vàng và bệ thờ, giáo trưởng thứ 16 của Mốt Cu và toàn thể nước Nga đã nói một câu đầy nghĩa tượng trưng một cuộc họp mặt với Putin : " Chức vụ tổng thống của ông là một phép lạ của Chúa "... Cách đây 4 thế kỷ, sau cuộc bầu vị Sa hoàng thứ nhất của triều đại Romanov, Giáo hội Chính thống Nga cũng tuyên bố như vậy... Năm 1991 người ta đã nghĩ là "lịch sử đã chấm dứt ", theo câu nói của Hegel được Fukuyama lấy lại. Nhưng với nước Nga, lịch sử các Sa hoàng sẽ không bao giờ chấm dứt. Đó là điều mà mọi người khách nước ngoài đều phải ngẫm nghĩ trước khi đi đến Mốt Cu.
Nguyên Phong dịch
Nguồn: "Le Roman des Tsars",NxbLes Editions du Rocher.Monaco, France. Tháng 2 năm 2013.