Wikipedia

Kết quả tìm kiếm

Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

một nhận xét sự việc vừa xẩy ra tại Vatican

----- Original Message -----
From: Jerry B 
Sent: Sunday, March 31, 2013 5:38 AM
Subject: Thảm-họa của CS.
 
 
NGUYÊN NHÂN CHÍNH ĐỨC GIÁO HOÀNG BIỂN ĐỨC THỨ 16 TỪ NHIỆM
.
Hà Nhân Văn.
 
ĐGH Bênêđíchtô hay Biển Đức thứ 16 rời ngôi giáo hoàng, không đơn giản. Rất phức tạp! Khi vừa được bầu, ngài đã nói với các Hồng y, ngài ở ngôi không lâu, chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Vị giáo hoàng người Đức này, gần suốt cuộc đời tu hành sống trong thế giới Triết học và âm nhạc Mozart, làm sao chịu nổi cơn giông bão tuy âm thầm mà như sóng thần đổ ập xuống Vatican do Hồng y Quốc vụ khanh Tarcisio Bertone cầm đầu, một quốc vụ khanh gắn liền với nhiều tai tiếng (controversy) về tài chính qua vụ ngân hàng Tòa Thánh, gọi là viện Công vụ tôn giáo IOR (hay là The Institute for the Works of Religion), còn bị phê bình là độc đoán, bảo thủ, ngăn cản canh tân, đồng thời phạm nhiều sai lầm về chính trị (thiết lập bang giao với bạo quyền CSVN là một vụ điển hình sai lầm), ông còn bị phê bình là thiếu kinh nghiệm ngoại giao, làm cho Vatican càng ngày càng mất ảnh hưởng trên trường quốc tế so với 29 năm thời ĐGH Gioan Phaolô II (thí dụ vấn đề VN đã không am tường lại còn khoán trắng cho bộ ngoại giao Tòa Thánh vẫn do mấy ông Tây thân CSVN khuynh đảo, qua mặt luôn ĐGH. Vụ tiếp TBT đảng CSVN đã gây một làn sóng ngầm công phẫn ngay ở Rôma. Bởi đó là một sai lầm). Trong 8 năm ở ngôi ĐGH, chồng chất khó khăn do giáo điều (the Curia) gây ra đã soi mòn tinh lực và đức kiên nhẫn của vị Giáo tông triết gia này. Dù vậy, sự làm việc và sức chịu đựng của ngài thật là phi thường. Dù rất bận rộn, một ngày làm việc từ 12-14 giờ không kể giờ nguyện, Đức Bênêđíchtô vào giờ nghỉ vẫn không rời sách báo về Triết học và tư tưởng hiện đại, nhất là khoa học. Chỉ trong 8 năm, thừa kế chỉ đạo của Đức Gioan Phaolô II, ngài tiếp tục mở rộng cửa Liên tôn và đã xóa hẳn tàn dư của Thần học giải phóng (thiên Tả thân Mác). Ngài đã tiến tới đích điểm sáng tỏ Thần học Nhân bản Kitô trong thế giới tiến bộ khoa học hôm nay. Một nền Thần học không đối nghịch Liên tôn, đặc biệt với Phật giáo và ứng xử với khoa học hiện đại. Nếu gọi là vì lý do sức khỏe tuổi già thì có thể nói không sức nào ở một ông già 86 tuổi có thể chịu nổi, nghĩa là không thể gánh nổi nữa, vì trách nhiệm thiêng liêng phải hạ gánh! ĐGH Biển Đức bị vây bủa trong một tình huống, theo báo The Economist, vốn rất thận trọng về các vấn đề tôn giáo, đã phải thốt lên về triều đại Giáo hoàng Biển Đức như sau: "Một giáo triều bị vây hãm lại bị thêu dệt thêm ra trong âm mưu, một số cảm thấy có sự tranh thủ ngôi thừa kế" (A beleaguered papacy is embroiled in intrigue. Some scent a succession struggle". Economist viết như trên trước 6 tháng ĐGH từ nhiệm và cho rằng, Hồng y Quốc vụ khanh Bertone là một nguyên nhân (God's bankers - báo đã dẫn, July 7, 2012). Xin lập lại, sự nghiệp tư tưởng vĩ đại của ĐGH Biển Đức là ngài đã sáng tỏ cho nhân loại thấy rõ từ bản chất, tôn giáo và khoa học, nhất là khoa học vũ trụ hiện đại đã không có gì mâu thuẫn, Đức Tin tôn giáo không trái với khám phá hiện đại nhất của khoa học về không gian và vũ trụ.

KHOA HỌC, CÔNG GIÁO VÀ PHẬT GIÁO

Cuộc chiến tương lai, dù cục bộ, khoa học và siêu kỹ thuật vẫn là yếu tố chủ yếu quyết định ai được ai thua. Báo The Economist, số ra ngày 7-7-2012, với chủ đề lớn "A giant leap for science" (Bước nhảy vọt của khoa học). Đây là những bước đi của "thần linh". Cơ quan NASA Hoa Kỳ đã chấm dứt kỷ nguyên "Khoa học không gian". Từ năm 2011 là kỷ nguyên "khoa học vũ trụ". Vũ trụ vô cùng nhưng không vô tận cũng đang biến, "tam thiên thế giới, bát vạn thế giới" (lời nhà Phật) đang dần dần lộ ra dưới mắt khoa học hiện đại. Số báo trước HNV nói về ánh sáng linh quang, từ một cõi nào trong vũ trụ những ngàn, vạn năm mới đến hành tinh của chúng ta, hẳn có độc giả cho rằng HNV lại "lên đồng" hoang tưởng. Nhưng lại là sự thực dưới ánh sáng siêu khoa học hôm nay "Làm thế nào có thể nhìn những gì không thể nhìn được" (How to see the unseeable", ScAm, vol. 303, no. 5, Nov. 2010). Các báo koa học như Scientific American hay Science trong năm 2012, chuyên chú về vũ trụ đã cho ta thấy ánh sáng linh quang mà ngàn xưa tiên tổ Việt tộc đã đề cập đến. Và Đức Phật đã sáng rọi. Chẳng hạn như cõi trời Đâu Suất trong ngàn cõi khác, gọi là đâu suất thiên, hay là Tusita, Tàu dịch là Hi-túc (túc đầy đủ, hài lòng). Một đời người ở cõi đâu suất dài bằng 4000 năm ở cõi nhân gian này. Thời gian một ngày một đêm ở cõi đâu suất dài bằng 400 năm ở thế gian (Đức Trạng Trình gọi thời gian ở cõi ngoài nhân gian là không thời. Nhà bác học Einstein gọi là "space time" trong không gian 4 chiều). Theo truyền thuyết Đức Phật Thích Ca đã từng ở cõi trời đâu suất trước khi "thị hiện nhân sinh" xuống nhân gian. Hàng trăm triệu dân Tàu Hoa Lục ngày nay đang hướng về vùng trời đâu suất mong Đức A Di Lặc "thị hiện nhân sinh" ở Hoa Lục. Đặc biệt tượng Đức A Di Lặc cười tươi như hoa. Với Thiên Chúa giáo, thiên đàng là điều hiển hiện, mắt ta không nhìn thấy. ĐGH Biển Đức thứ 16 chìm đắm vào kho sách Thần học mênh mông, Ngài đã soi rọi Thần học Thiên Chúa giáo vào khoa học hiện đại và ngược lại để sáng tỏ rằng, Tôn giáo, một cách chung và Thần học không có gì mâu thuẫn với khoa học. Nhà Phật nói đến Chủng tử, chủng là hạt giống, là căn nguyên (shu), chủng tử là hạt giống (shuji). Hơn 2000 năm sau, khoa học Y, Sinh, Hóa hiện đại mới tìm ra cái chủng tử ấy gọi là "gen" (genesis) và phương pháp DNA đã sáng rõ đâu là chủng tử - tức "gene". Con khỉ tinh tinh (khỉ đột) hay đười ươi giống như người đến 99% nhưng cái chủng tử, cái căn nguyên chỉ 1% khỉ khác người nên khỉ là khỉ, người là người. Thiên Chúa giáo cũng gọi là cái căn nguyên Nguyên khởi do Thiên Chúa (God) mà ra, đấng chỉ có một. ĐGH Bênêđíchtô thứ 16 (vừa từ chức) qua âm nhạc Mozart mà ngài nhuần thấm. Người khác khỉ và muôn loài là do tiếng nói (Ngôi lời). Đức Phật Thích Ca nói "Pháp bất nhị môn", khởi từ Pháp là lời vậy. Thế giới hôm nay là "thế giới của tôn giáo". Khoa học vũ trụ càng mở rộng, Pháp của Đức Thích Ca với "tam thiên thế giới" càng ngày càng rõ. Đức Chúa Trời, hay Thượng đế hay "Trời đất Chúa tể càn khôn" càng ngày càng hiển hiện qua Thần học của ĐGH Bênêđíchtô 16, một nền nhân bản, con người là gốc. Tôn giáo đang thăng hoa. Phật giáo chắc chắn sẽ phục hưng toàn diện ở Tàu. Hình tượng Phật A Di Lặc đã trùm phủ. Về Công giáo ở Tàu hiện nay, do chính sách ứng xử linh hoạt và gắn bó với giáo hội địa phương của ĐGH Biển Đức thứ 16, trong vòng 8 năm dưới triều đại của ngài, giáo hội thầm lặng Trung Hoa càng ngày càng phát triển, số linh mục nhà nước quay trở về với Vatican lên đến con số kỷ lục. Giáo phận Thượng Hải là bằng chứng về sự sụp đổ của "giáo hội" nhà nước CS. Giáo dân theo "GH quốc doanh" trở về GH Mẹ, vào năm 2012 đã lên đến 12 triệu giáo hữu.

GƯƠNG THÁNH VỀ TRÁCH NHIỆM

Như tin tức đã đăng tải, ĐGH Bênêđíchtô thứ 16, VN gọi là Biển Đức cũng là tên một Dòng khổ tu, vị Giáo tông thứ 265 của Hội Thánh Công giáo toàn cầu đã từ nhiệm ngày 28-2-2013. Đúng 8 giờ tối ngày 28-2 này, ngài sẽ rời ngai Giáo hoàng, 86 tuổi. Đây là vị Giáo hoàng thứ 2 từ nhiệm trong lịch sử Hội Thánh Công giáo. ĐGH Gregory từ nhiệm năm 1415 vào lúc giáo hội khủng hoảng trầm trọng trong nội bộ. Ba giáo hoàng phải rời khỏi điện Vatican. Chút nữa, GH lại thêm một cuộc ly khai. Nguyên nhân cũng là do giáo thuyết bị "lạc". Các ông Tiến sĩ Hội Thánh tự coi là các bộ óc của Hội Thánh. Vào thời này, các Hồng y Pháp là một thế lực khuynh đảo Vatican. Một biến cố ghê gớm đã xảy ra, GH Bênêđíchtô bị Cộng đồng Vatican cách chức về tội "bội phản, phe phái và rối đạo". ĐGH tiền nhiệm Gregory XII 90 tuổi đủ khôn ngoan đã tự thoái vị. Sau cuộc khủng hoảng trầm trọng này, GHCG La Mã lại trở lại bình thường và cho đến nay mới lại xảy ra một biến cố làm xôn xao trong và ngoài GH La Mã. Có thể nói là rung chuyển. Sau gần 600 năm, La Mã mới xảy ra một biến cố như vậy. Không đơn giản là lý do sức khỏe của giáo hoàng. Phải nói rằng, ngài quyết định một việc phi thường. Nếu nói về lý do sức khỏe, tuy cũng là như thế nhưng chưa phải là "lý do chính yếu". Trong giáo triều La Mã, nhiều Giáo hoàng ngoài 90 tuổi, sức khỏe suy yếu vẫn ngồi trên ngai, tượng trưng sự hiện thân của Đức Kitô trên trần gian, còn công việc dù nặng nề cách mấy đã có Hồng y đoàn niên trưởng, các Hồng y Thánh bộ phò tá và Giáo triều với Hồng y Quốc vụ khanh. Theo báo The Economist, cách nay nhiều tháng, ĐGH Biển Đức 16 đã trải qua một cuộc khủng hoảng nội bộ, kể cả một số vấn đề rối loạn cùng các áp lực chồng chất đè nặng trên thân thể của một ông già với tâm hồn nghệ sĩ và "rất hiền lành, cả đời tu hành trước khi lên ngôi GH chưa từng đương đầu, đối phó". Biến cố đau lòng nhất là quản gia thân cận nhất của ngài "tiết lộ bí mật" rồi bị bắt giam. Chủ tịch ngân hàng của Vatican bị cách chức vì bê bối. Rồi họa báo chí truyền thông làm rùm beng mà ngài không quen chịu đựng. Trong khi báo giới bảo thủ thì cố bưng bít, nếu ai nói ra lại bị buộc tội "rối đạo" (một số giáo sĩ và giáo dân VN có thói quen này, hễ ai đụng chạm này nọ đến những sai lầm trần thế cuả giáo triều trần gian là bị chụp mũ "rối đạo").



Vụ ngân hàng Vatican gây tai tiếng, "tệ hại nhất", kể cả rửa tiền (money laundery) mà báo La Republica đã công khai hóa. Ngân hàng chồng chất sai lầm, kể cả bất hợp pháp. Thậm chí Hội Đồng Âu Châu phải nhảy vào cuộc, lập một ủy ban điều tra ra lệnh cho ngân hàng trong một tháng phải phúc trình. Cái chết đầy bí ẩn cuả một chủ ngân hàng Ý Roberto Calvi lại càng gây thêm tai tiếng. Vị giáo hoàng học giả triết gia này có bao giờ biết đến tiền bạc. Lung tung, rối bời. Hồng y Quốc vụ khanh bị tố nhiều sai phạm, lợi dụng quyền bính bảo thủ, xía vào nhiều việc không thuộc thẩm quyền (xin nêu một thí dụ trường hợp VN: cuộc tranh đấu "tòa Khâm sứ" ở Hà Nội do ĐTGM Ngô Quang Kiệt lãnh đạo đang lên cao, đầy khí thế, giáo dân đang hăng, bỗng dưng Hồng y Quốc vụ khanh gửi thư cho ĐTGM Ngô Q. Kiệt yêu cầu ngưng! Thật là "lãng xẹc"! Hoàn toàn không thuộc thẩm quyền của Hồng y Quốc vụ khanh. Hồng y Bertone hành động chỉ vì Hồng y Pháp Etchagary thân CSVN, áp lực. Do không thể gây nứt rạn và hiểu lầm giữa Vatican và Tổng giáo phận Hà Nội, ĐTGM Ngô Quang Kiệt phải ngưng cuộc đấu tranh hoàn toàn chính nghĩa. Vụ quan trọng nhất là "bang giao VN và Vatican". Sứ thần Vatican không thường trú, một Tổng giám mục, đến Hà Nội thương thảo, ký kết với bạo quyền CSVN, "không thèm một lời hỏi ý kiến HĐGMVN!" Vị sứ thần này hoàn toàn không có thẩm quyền làm trái phép như vậy. HĐGMVN dù nhẫn nhục đã quá nhiều đã phải kín đáo lên tiếng qua một văn thư phản bác). Bộ ngoại giao Tòa Thánh với cái bóng của Hồng y Etchagary tự tung tự tác trong tiến trình bang giao với CSVN, lại trao cho một linh mục họ Cao, nguyên đệ I tham vụ Tòa Khâm sứ Tòa Thánh ở Hoa Thịnh Đốn. CSVN rất quỷ quyệt khi linh mục họ Cao đại diện bộ ngoại giao Tòa Thánh về Hà Nội thì cho "limousine" bóng loáng ra phi trường đón, đưa thẳng về dinh Quốc khách nghỉ ngơi. Đưa một linh mục VN về Hà Nội để "deal" với bạo quyền bất kể HĐGMVN! Thậm chí bộ ngoại giao Tòa Thánh quyết định việc này việc nọ, rất quan trọng đối với vận mệnh GHVN, HĐGMVN chỉ được biết khi 2 bên đã chung quyết qua văn bản! Thậm chí, Sứ thần không thường trú đến Hà Nội vào lúc biểu tình chống TC bành trướng đang lên cao, bạo quyền sợ rằng ĐTGM Ngô Quang Kiệt và giáo dân Hà Nội - Thái Hà tham gia nên yêu cầu Sứ thần Tòa Thánh can thiệp. Ngày cuối ở Hà Nội, sắp ra phi trường Nội Bài về La Mã, Sứ thần tức tốc vào ngay Châu Sơn - Nho Quan (Ninh Bình) có TGM Nguyễn Văn Nhơn tháp tùng gặp riêng ĐTGM Kiệt ít phút, không kịp ăn trưa lên xe về Hà Nội ngay để kịp giờ máy bay cất cánh! Sao lại thế nhỉ? Sứ thần TGM là thế nào mà lại dám qua mặt cả một giáo hội địa phương? Ai quyền bính hơn ai? Tiến trình bang giao Vatican và VNCS là do bộ ngoại giao Tòa Thánh và Quốc vụ khanh Bertone, vị Hồng y đã và đang bị tố cáo nhiều sai lầm và độc đoán. Biến cố ĐGH Biển Đức thứ 16 từ chức, giáo hội La Mã ngày nay không phải "biến loạn" như năm 1415, ĐGH Gregory phải từ chức với Hồng y đoàn 24 vị mà Hồng y Pháp là một thế lực khuynh đảo. Tuy nhiên bộ ngoại giao Tòa Thánh trong 20 năm qua về vấn vấn đề VN vẫn bị các ông Tây "Phú lang sa" khuynh đảo, hầu hết "đôi chút Tân Tả" (the New Left), thậm chí các ông còn chủ trương bỏ rơi Đài Loan, thiết lập bang giao với bạo quyền Bắc Kinh. ĐGH Gioan Phaolô II, lúc còn sinh thời ngài cương quyết lắc đầu. Với ngài, CS Việt hay Tàu nó vẫn là CS vẫn là sa tăng thời đại. Nêu lên VN như một thí dụ nhỏ để chứng tỏ Hồng y Quốc vụ khanh hiện nay và những sai lầm của giáo triều của Hồng y là một nguyên nhân Đức Bênêđíchtô 16 không đủ sức chịu thấu. Và ngài đã dũng cảm phi thường rời ngôi kế thừa Thánh Phêrô. Bang giao VNCS và Vatican là một đơn phương của giáo triều Hồng y Bertone trao cho một vị sứ thần không cần biết đến GHVN, tâm nguyện và ý chí, lại trao cho một vị linh mục VN gần trọn đời ở nước ngoài với tư cách một nhà ngoại giao tức Cao tham vụ. Một linh mục Tây Canada nói với HNV: "Pauvre Père Cao! Malgré lui!". Chẳng trách chi điệu nghệ lừa bịp của lãnh đạo CSVN vẫn cứ thành công "rực rỡ" ở Rôma! Báo The Economist, trước ngày ĐGH Biển Đức từ chức, nhận định rằng: Bao lâu Quốc vụ khanh Tòa Thánh (Thủ tướng Giáo triều) còn ở lại, cuộc nội tranh ở Vatican gần như còn tiếp tục (As long as the Secretary of State stays, the infighting in the Vatican seems likely to continue - the Economist, July 7, 2012).

HỒI CHUÔNG CẢNH TỈNH

ĐGH Biển Đức 16 từ nhiệm là một hồi chuông cảnh tỉnh giáo triều Vatican hiện nay, ngài quả là một vị "thánh sống". Ngài rời ngôi không phải là thoái vị (abdication) mà cũng không phải là từ chức. GH là ngôi cao tột đỉnh còn từ chức với ai. Ngài rời ngôi của Thánh Phêrô là chiếu theo điều 322-2 Giáo luật "được quyết định hoàn toàn tự do, không có vấn đề một ai khác chấp thuận". Ông già thánh này trở về thế giới. Lời Chuá qua nhạc Mozart, ngài sưu tầm và dạo đàn nhạc Mozart, 600 bài. Khi lên ngôi, ngài đưa chiếc piano vào phòng riêng, đàn lớn quá, không đưa lên được cầu thang, phải tháo ra từng mảnh đưa vào phòng ráp lại. Trong điện Vatican, mỗi Giáo hoàng lui về phòng sau 12, 13 giờ làm việc lại vang lên khúc dương cầm "Petite musique de nuit" của Mozart. Trong Lễ Tro vừa qua (13-2) vương cung thánh đường Ste Satine trên đồi cao thơ mộng Ventin, Đức Biển Đức 16 cử hành thánh lễ, vang vang như lời thiên thần "Tất cả là phù du" (Vanitas Vanitatum Omitas) cũng như dân Việt ta thường nói: "Sớm nở tối tàn - Công danh phù thế có ngần ấy thôi!" Ngài rời ngôi để cảnh tỉnh những ai đó cản trở con đường canh tân mà Ngài là một triết gia canh tân, đưa Thần học vào thế giới mới, nhân bản đại đồng liên tôn, sau Thiên Chúa chỉ có một con người là đáng quí đáng trọng hơn hết thảy. Ngài đã cảnh cáo Hồi giáo quá khích đừng bao giờ bạo động giết người rồi lại hô "Thượng đế vĩ đại" (God is great). Và là vị Giáo hoàng đầu tiên thời cận đại đã lên tiếng, một cách hàn lâm minh bạch khúc chiết nói về những sai lầm căn bản (về triết học) của chủ nghĩa Duy vật vô thần Các Mác. Sau ngày 28/2, Đức Biển Đức 16 lui về ở ẩn trong một đan viện ở Rôma (thuộc Dòng khổ tu Biển Đức - Benedictino). Tấm gương từ nhiệm của Đức Biển Đức 16 sáng rực đời đời.

HÀ NHÂN VĂN
 

tác giả Tràm Cà Mâu

Vợ Hiền
Tràm Cà Mâu

1.
Vợ tôi không phải là một người đàn bà có nhan sắc khuynh nước đổ thành. Bởi tôi, vốn tài mạo tầm thường và cũng không có nhiều may mắn bất ngờ để lọt mắt xanh những cô có nhan sắc chim sa cá lặn. Vả lại tôi cũng thường nghe bố tôi tuyên truyền nhồi nhét trong cái đầu từ nhỏ rằng, đẹp đến mấy rồi cũng trở thành méo mó xấu xí, và vợ đẹp là vợ người ta. Vợ tôi cũng không có tài ba xuất chúng, bởi tôi vốn nể sợ và có thành kiến với những người đàn bà tài giỏi, vì họ thường kiêu ngạo và hay thành độc tài vợ trị. Ðộc tài đảng trị thì có thể bỏ nước chạy ra biển chết, chứ độc tài vợ trị thì không chạy đâu cho thoát cả!
Vợ tôi chỉ là một người đàn bà trung bình trên tất cả mọi mặt. Với một vóc dáng tầm thường bên ngoài, không vêu vao xấu xí khó nhìn. Bên trong nàng mang một tấm lòng hiền hậu, bao dung, biết hành xử khôn ngoan khéo léo, để đem lại cho gia đình hạnh phúc êm ấm lâu bền mà tôi vô cùng biết ơn mỗi khi nghĩ đến.

Trong nhiều năm chung sống, chưa bao giờ nàng nặng lời với tôi, chưa bao giờ có cử chỉ hay ngôn ngữ thiếu lịch sự, cũng chưa lần khóc lóc giận hờn đòi hỏi điều này điều kia, hoặc đặt điều kiện làm khó, hay so đo chuyện nhà với gia đình người khác.

Ngoài tình cảm thắm thiết chia sẻ của vợ chồng, nàng âu yếm như một người tình, khoan dung rộng lượng như một người mẹ và hiểu biết như một người tri kỷ.


2.
Năm tôi hai mươi tám tuổi, mẹ tôi nóng ruột thúc hối ép tôi lập gia đình. Bà đưa cái công thức cổ xưa của mấy ông Tàu bày ra là "tam thập nhi lập". Tôi cũng chưa đến ba mươi, mẹ tôi cứ gán đại thêm cho hai tuổi để dễ bề ép uổng. 

Tuổi đó, thích được quen nhiều bạn gái, bạn thôi thì được, nhưng nghe đến chuyện hôn nhân là xanh mặt. Vì qua kinh nghiệm bạn bè, kinh nghiệm giao tiếp trong sở, tôi thấy đa số mấy anh có vợ rồi thì dường như bị khép chặt trong cái vòng "chuyên chính" của bà vợ nhà! Cái vòng tuy lỏng lẻo và êm ái, nhưng bằng sắt, rất chặt và siết cứng. 
Một anh bạn thân, lâu lâu giận vợ, đến nhà tôi ở lại, nằm rũ ra trên giường như đống mền rách rầu rĩ nói với tôi:

- Tao chỉ mong có được một ngày an bình, sung sướng như mày, một ngày thôi cũng đủ.


Nghe thế thì không sợ sao được? Trong sở tôi có mấy anh bạn bị vợ cào rách mặt và phải lấy cớ là dao cạo râu cắt. Ai cũng biết chuyện gì đã xảy ra, vì mặt mày các anh láng lẫy, trơn tru, có sợi râu nào đâu mà phải cạo cho dao cắt! 

Một ông lớn tuổi khác, vợ vào tận sở xé áo và kêu bằng mày tao, còn tố cáo ông mang bằng kỷ sư giả bên Pháp về. 

Nhan nhản những tấm gương gia đình u ám trước mắt như vậy, thì chỉ có ngu quá hoặc liều mạng mới không sợ mà thôi.Tôi khất lần mãi không được, phải bẻn lẻn theo mẹ, đi ra mắt, và xem mặt nhiều cô con gái các gia đình mà bà quen biết. Tôi theo lời dạy của một anh quân sư quạt mo, cứ mang bộ mặt đưa ma đến nhà người ta và ăn nói nhát gừng cộc lốc, thì không ai muốn gả con gái cho, và các cô thấy vậy thì cũng ớn lạnh mà dạt ra. Thế mà cũng có nhiều nhà khen tôi hiền lành, muốn gả con gái cho. Tôi tìm đủ lý do nói riêng với mẹ để chê bai từ khước. Cô thì chê mặt dài, cô thì chê mũi lớn, cô khác chê mắt có đuôi, cô thì mồm như có râu. Toàn cả những lý do vu vơ. Mẹ tôi phiền muộn thở dài, vì biết con trai bà cũng chẳng có sự nghiệp gì sáng giá,chẳng có một phong cách đặc biệt nào, mà đòi hỏi quá đáng chăng?


3.
Không nỡ để mẹ buồn, tôi đem Lam, người bạn gái thân thiết nhất về giới thiệu với mẹ, bà vui vẻ chịu ngay. Bà khen Lam láu lỉnh, bặt thiệp và xinh đẹp.Mẹ tôi đến thăm xả giao nhà Lam hai lần để dò xét gia thế, và quyết liệt chống đối cuộc hôn nhân, lấy lý do là mẹ Lam dữ dằn và có cách cư xử thiếu lễ độ với chồng. Tôi nói:

- Con cưới Lam chứ cưới bà ấy đâu mà mẹ sợ?

Mẹ tôi nhất quyết tin rằng, mẹ hổ thì khó sinh được con cừu. Vì cách đối xử của cha mẹ, ảnh hưởng đến tính tình con cái. Cha mẹ dữ dằn, con cái khó mà hiền lành được, vì ngày ngày học cách ăn nói, cách đối xử, tiêm nhiễm những thói quen của cha mẹ, và đem ra xử sự với đời, mà không biết đó là xấu. Tôi cố bào chữa cho Lam, nhưng mẹ tôi đã nhất quyết, không lay chuyển được. Bà nói:

- Mẹ thương con, mẹ không muốn sau này con khổ vì đời sống gia đình thiếu hạnh phúc. Vì không có gì khổ bằng có vợ dữ dằn, hỗn láo, có thể làm người chồng buồn phiền sinh ra rượu chè, cờ bạc, trai gái hư hỏng. Mẹ thương con, lo cho tương lai con nên mẹ không chịu.

Tôi định nói với mẹ rằng, con trai của mẹ cũng chẳng hiền lành chi, mà chê thiên hạ. Nhưng sợ mẹ buồn nên im lặng. Mẹ của Lam biết được ý kiến của mẹ tôi, nổi tự ái, nói nhiều lời tàn nhẫn, tổn thương đến gia đình tôi, và tuyên bố không bao giờ gả Lam cho tôi. Khi bị trắc trở, ngăn cấm thì tình yêu càng thêm tha thiết bốc lửa, và hai đứa tôi càng quyết vượt qua hàng rào ngăn cản của gia đình. Muốn sống cho nhau, và sống chết vì tình yêu.

Một lần chìu ý mẹ, tôi miễn cưỡng đi xem mặt một cô mà mẹ tôi gọi là gia đình phúc hậu đàng hoàng. Tôi chẳng tha thiết gì, chỉ giữ đủ lịch sự tôi thiểu để cho mẹ khỏi mất mặt. Lần đó Lam biết được, nàng giận dữ sỉ vả tôi:

- Anh là một thằng đểu cáng, xấu xa đê tiện, một kẻ hèn nhát núp váy mẹ, không dám làm gì cả. Anh không xứng đáng với tình yêu của tôi.
Tôi nghe mà bàng hoàng, như bị sét đánh. Hai đứa giận nhau. Tôi chợt nhớ tới lời nhận xét của mẹ, và thấy bà cũng có lý phần nào. Nhưng tim tôi vẫn nát tan xót xa vì chuyện tình đổ vỡ. 

Ngay sau đó, Lam có người yêu mới là Tuân. Tuân cũng là trong đám bạn bè quen biết lâu dài với tôi, tính tình Tuân hiền lành, chịu đựng, và Tuân đã bền bỉ theo đuổi Lam từ lâu. Nửa năm sau, tôi đi dự đám cưới Tuân, Lam với trái tim vỡ nát, nhưng cũng vui mừng vì Lam lấy được chồng hiền lành và đàng hoàng, có thể bảo đảm đời sống tinh thần vật chất cho gia đình sau này. Tôi thật tình nghĩ rằng, tôi không bằng được Tuân về nhiều mặt. Lam bỏ tôi là phải.

4.
Mẹ tôi làm như lấy vợ cho bà, cứ khóc lóc thúc giục mãi. Tôi tâm sự với một người bạn cũ. Anh cười và nói:

- Hay là cậu thử tìm hiểu Mai, em gái tôi xem sao. Nó cũng sẵn có cảm tình với cậu đó. Mai hiền lành lắm.Ðược bạn khuyến khích, tôi bắt đầu tìm hiểu Mai. Nàng không đẹp, không xấu, chăm chỉ, hiền lành. Trước đây, đến nhà bạn chơi, tôi chỉ thấy Mai thấp thoáng đâu đó sau bàn học, hoặc lẳng lặng rút lui sau khi cúi đầu chào lễ phép.
 
Dẫn Mai đi chơi, tôi không tìm hiểu được chi nhiều về Mai, vì nàng quá thụ động, khi nào cũng nhẹ nhàng chìu chuộng, ít đưa ý kiến riêng. Khi hỏi ý, nàng thường bảo:

- Dạ, anh cho em đi đâu cũng thích cả, anh vui thì em cũng vui.Tôi đem nhận xét về cái hiền lành của Mai nói với một người bạn. Anh cười hô hố và nói:
- Trời ơi, khi mới quen thì em nào mà không hiền lành như thánh mẫu, dịu dàng như tiên cô. Khi cưới về thì cái đuôi dài thòng mới lòi ra, và dữ như chằng tinh. Em nào cũng vậy cả.

Tôi hỏi thẳng anh của Mai, anh trả lời:

- Con nhỏ hiền lành, biết nhường nhịn và rất dịu dàng. Cậu có phước lắm mới gặp nó. Không phải vì nó là em gái mà tôi khen đâu.

Mẹ tôi đến thăm gia đình Mai nhiều lần, khen mẹ của Mai phúc hậu, hiền lành, cư xử lịch sự, phải phép với chồng. Bà nghĩ rằng, nhất định Mai cũng học được nề nếp gia đình của mẹ, không nhiều thì ít. Bà thúc tôi làm đám cưới ngay. Tôi xin hoãn một thời gian để tìm hiểu thêm, mẹ không chịu và bảo:
- Lấy vợ thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha.

Tôi nói rằng, nếu nghe được lời dèm pha đúng, thì cũng là điều tốt, mình khỏi phải xét đoán lầm người. Mẹ tôi lại giảng cho tôi rằng, chín mươi phần trăm cách cư xử của con cái là do ảnh hưởng sinh hoạt tốt xấu của cha mẹ. Cha mẹ gieo vào đầu con cái thứ tư tưởng nào, thì nó sẽ hành động theo lối đó. Thương mẹ, tôi tạm quên kinh nghiệm ghê gớm trong đời sống gia đình của bạn bè và đồng sự, liều thân lấy vợ cho mẹ vui lòng. 


Có một ông bạn bảo rằng, lại thêm một thằng đàn ông ngu muội đi vào vết xe đổ nghìn năm của nhân loại


.5
Tôi cưới Mai, nàng như cái bóng dịu hiền bên tôi.Tôi thấy mình tan loãng vào tình yêu êm đềm, và chợt nhận ra đời sống gia đình êm ái, thoải mái và hạnh phúc hơn nhiều lần đời sống độc thân. Không thấy gò bó tù túng trong dây ràng buộc của gia đình như nhiều người thường bảo. Mai lo lắng cho tôi những thứ cần thiết lặt vặt trong cuộc sống bình thường, bổ khuyết cho tôi những thiếu sót, dịu dàng an ủi tôi những khi lo buồn. Tôi nói với vợ:

- Anh ngu quá, biết lấy vợ mà sung sướng hạnh phúc như thế này, thì đâu để độc thân đến gần ba mươi tuổi. Uổng thật.
Những khi chúng tôi có ý kiến trái ngược, Mai dịu dàng phân tích thiệt hơn cho tôi nghe, rồi để cho tôi quyết định. Sau khi quyết định xong, dù có trái ý nàng, Mai cũng vui vẻ cố gắng giúp tôi hoàn thành công việc. Không như các bà khác, những lúc chồng làm trái ý, thì các bà mong cho ông chồng thất bại để chứng tỏ ý kiến của bà là đúng, là hay. 
Mai thường nói:

- Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn. Nếu ai cũng khăng khăng giữ ý của mình, thì chẳng làm nên được việc gì cả.

Cũng có khi quyết định của tôi sai lầm, đưa đến kết quả không tốt. Những lúc này, Mai thường hết lời dịu dàng an ủi tôi, và cho rằng tôi không có lỗi gì cả, ví ai cũng có thể sai lầm, và Mai cho rằng nàng cũng có phần lỗi, vì chưa tận tình giúp tôi đầy đủ ý kiến để làm quyết định. Từ đó, tôi cảm thấy mình phải lắng nghe ý kiến của vợ nhiều hơn.Tôi nghĩ, nếu những lúc này mà Mai dằn vặt, nằng nặc buộc tôi tôi, thì chưa chắc tôi đã thấy mình lầm lỗi. Mai không như một số đàn bà khác, đúng hay sai cũng đổ lỗi cho chồng, và những khi chồng thất bại trong đời, là cái dịp cho các bà chê bai, mai mỉa, nói những lời tàn nhẫn.

Ngoài xã hội, có những lúc tôi vô tình hoặc thiếu may mắn, gây nên những sai lầm với người khác, Mai tự đứng ra, gánh vác hết trách nhiệm thay tôi. Tự ái đàn ông, đâu cho phép tôi để vợ gánh vác trách nhiệm thay mình. Tôi thấy thương và quý vợ nhiều hơn. Mai bảo:
- Chuyện nhỏ, để em gánh vác giúp, anh để tâm trí làm những việc khác ích lợi hơn.
Tôi thầm nghĩ, tôi thì làm chi có việc lớn mà gánh vác.


6.
Những năm mới lấy nhau, tài chánh gia đình khó khăn, đắp trước bù sau hàng tháng. Áo quần đơn sơ, ăn uống dè xẻn. Thế mà Mai bao giờ cũng vui vẻ, chưa bao giờ nghe Mai than thở hoặc so sánh với các bạn bè khác. Nàng thường nói:

- Chúng ta nghèo vật chất, nhưng giàu hạnh phúc, tinh thần thanh sạch, thế là đủ. Ðời sống biết đủ là đủ.

Chính vì Mai không than thở, nên tôi thấy mình có trách nhiệm nhiều hơn về tài chánh gia đình. Buổi chiều về, tôi đi dạy thêm cho các lớp đêm. Ngày nghỉ, tôi mở lớp dạy kèm luyện thi cho từng nhóm nhỏ. Tài chánh gia đình nhờ đó mà dồi dào hơn, có thêm tiền, nhưng Mai không vui, mà chỉ lo cho tôi thiếu sức khỏe sinh bệnh hoạn.

Năm đó, tôi không chịu theo bè cánh với nhóm tham nhũng, chúng đày tôi về một tỉnh nhỏ xa xôi. Tôi buồn phiền lắm. Không đi thì không được, đi thì bỏ hết công chuyện làm ăn riêng tư. Mai khuyên tôi nhẫn nhịn, và gắng tìm vui trong hoàn cảnh mới. 

Khi chúng tôi về tỉnh nhỏ, Mai thường an ủi và nâng đở tinh thần tôi, đặt mua các thứ sách báo tôi thích, để giải trí và quên đi phần nào nổi buồn nơi tỉnh nhỏ. Mai xin được việc ở một nhà dạy trẻ, để phụ thêm kinh tế gia đình....

Khi chạy vội về Sài Gòn vào năm 1975, chúng tôi mất tất cả, trở thành trắng tay. Tôi lo lắng và muộn phiền lắm, nhưng nhờ thái độ trầm tĩnh và chịu đựng của Mai mà tôi bớt bối rối. Trước ngày miền Nam sụp đổ, chúng tôi bàn nhau là nên ở hay đi. Ý Mai thì nên đi để bảo toàn tính mạng cho gia đình, khi yên ổn thì quay trở về cũng chẳng mất mát gì. Phần tôi thì vì yêu mến quê hương một cách lãng mạn, quyết ở lại, muốn cùng chia sẻ khổ đau, sống chết cùng quê hương. Chủ nghĩa đối với tôi không quan trọng, tôi nghĩ chính thể nào cũng thế thôi, cũng cùng là người Việt, cùng giòng giống tổ tiên, thì việc gì mà phải bỏ chạy? 

Tôi đã lầm to. Thảm họa trùm xuống khắp miền Nam. Ðau khổ, lao tù, đói lạnh, đè nén, áp bức. Tôi cũng ôm gói đi tù như mọi bạn bè, Trong tù, tôi vô cùng ân hận về quyết định sai lầm, để thân xác mình bị tù đày, để vợ con bơ vơ, đau khổ, đói rách, không vốn liếng, không tài sản. 
Ba tháng sau khi tôi đi tù, Mai thấy chồng chưa được thả về, đã xoay xở rất mau. Nàng mua áo quần cũ, cắt ra may thành áo quần trẻ em đem bỏ mối tại các chợ trời hè phố. Ðêm nào cũng may đến mười hai giờ khuya. Một mình nuôi chồng tù tội, nuôi con thơ dại, ngược xuôi trong cuộc đổi đời. Những năm tháng nằm tù, có nhiều thì giờ suy nghĩ, tôi mới sâu sắc nhận ra mình mang ơn vợ quá nhiều. Tình cảm nàng dành cho tôi tràn đầy dịu dàng, bao dung, âu yếm và hy sinh. Tôi biết mình là kẻ có phước được vợ hiền....


7.
Khi tôi được ra tù, thể xác tiều tụy, tinh thần suy nhược, đời sống bất ổn, bị đe dọa thường trực. Hàng tuần bị tên công an khu vực đến thúc giục đuổi đi về vùng kinh tế mới, và nói lời hăm dọa. Tôi nản lòng bàn với Mai để dọn về vùng kinh tế mới cho yên thân. Nàng đã khôn ngoan giải thích rằng, bằng mọi giá phải bám vào thành phố, để sống còn và để bớt bị độc tài áp bức, bớt khốn khổ vì cái u mê của chế độ hành hạ. Nàng thường khuyên tôi:

- Mình hãy xem cuộc đời này như một trò chơi không vui, đừng quá quan tâm đến những gì xảy ra cho mình, cho thiên hạ chung quanh. Những đau khổ mà mình đang chịu đựng cũng là một thứ thử thách, làm cho mình lớn thêm lên, trưởng thành hơn, và cứ vui với những gì nhỏ nhoi nhất có thể có trong thời gian này. Không xấu xa nào có thể tồn tại mãi mãi được, ánh sáng tương lai sẽ có ngày chiếu rọi trên quê hương.
Mai đã an ủi, khuyên nhủ và dịu dàng dắt tôi đi qua quãng đời đau khổ trong chế độ lạ lùng vô nhân kỳ quái này. Chúng tôi bữa đói bữa no dắt nhau đi trong đời sống mịt mù của xã hội chủ nghĩa trá hình.

Khi tôi ngỏ ý tham gia một tổ chức phục quốc chống lại chính quyền cộng sản trong thành phố, thì Mai đồng ý ngay. Nàng nói:

- Chúng ta đã vất súng đầu hàng, chỉ mong được bình yên sống và góp phần xây dựng lại quê hương.Nhưng kẻ chiến thắng đọa đày nhân dân xuống vực thẳm. Không cho ai yên sống. Chính họ đã buộc chúng ta đứng dậy, cầm lại súng. Việc đáng làm thì phải làm. Nếu ai cũng trốn tránh cả, thì đau khổ này biết bao giờ dứt được? Nhưng phải thận trọng để khói phí thân làm việc dã tràng.

Cùng với bạn bè cũ mới,chúng tôi tổ chức mua súng, liên lạc với các nhóm kháng chiến khác. Ra một tờ báo bí mật chuyền tay. Mai đã ngược xuôi giúp đỡ chúng tôi, mang tin tức, chuyển vận hàng hóa. Chúng tôi mơ mộng một ngày ánh sáng tự do chiếu rọi trên quê hương, trở lại đời sống không áp bức kẹp kềm.Một vài người trong nhóm bất cẩn, tổ chức bị đổ bể, đa số anh em bị bắt. Tôi chạy thoát được với cái áo có nhiều lỗ đạn bắn thủng bên hông. Mai nhờ người nhắn tôi bình tĩnh chờ nàng sắp đặt.Nàng vay mượn và bán hết đồ đạc trong nhà, đóng tiền cho tôi bí mật vượt biên...

Phút cuối chủ thuyền cho vợ con tôi cùng đi với lời hứa trả tiền sau. Tôi cám ơn Trời Phật đã xui khiến cho chúng tôi còn có bên nhau trong đời.Trên biển đói khát Mai nhường phần ăn uống cho con, cho chồng, với lý do là tôi cần sống hơn nàng, tôi có thể làm được nhiều việc ích lợi hơn. Nhưng theo ý tôi, thì chính Mai mới xứng đáng để sống sót vì đời sống nàng có nhiều ý nghĩa, tốt đẹp hơn.

Những ngày khó khăn nắng cháy cực khổ tại trại tỵ nạn, nàng dành lấy hết tất cả việc vặt vãnh như lãnh thức ăn, xách nước, nấu nướng, chăm sóc con cái, để cho tôi có thì giờ tham gia tiếp tay phụ giúp các công tác chung trong trại. Mai dặn tôi tránh xa những nơi có tranh giành, có chút quyền lợi, chỉ kê vai gánh vác những việc có ích chung mà không ai làm. Với khuyến khích và an ủi của vợ, tôi làm được nhiều việc hữu ích cho cộng đồng. Trong lúc đó, một vài anh bạn tôi, tham gia việc cộng đồng mà như làm việc quốc cấm, bị vợ cằn nhằn, ngăn cản, mỉa mai rằng việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. 

Nhiều người than vãn về những thiếu thốn, khó khăn, cực khổ trong trại tỵ nạn. Mai thì khi nào cũng vui vẻ, lạc quan, và cho rằng tương lai được sống đời tự do đang rõ ràng trước mắt. Những thiếu thốn khó khăn trong trại tỵ nạn là đương nhiên. Ở đây cũng còn sung sướng hơn những ngày tháng sống với chế độ công sản u ám, bất trắc, chèn ép, sợ hãi. Những khi con tôi chê cơm, Mai nhắc nhở cho chúng những ngày khoai sắn qua bữa, những ngày đói khát trên biển khơi, thì chúng vội vàng ăn ngon lành những chén cơm trong trại tỵ nạn.


8.
Chúng tôi đến Mỹ vào mùa Ðông, tuyết phủ ngút ngàn, trắng xóa cả đất trời. Chưa biết có thể làm gì để nuôi sống gia đình trong miền đất mới, nhưng nhờ trợ cấp xã hội trong thời gian đầu, đắp đổi tạm sống qua ngày. Dù không dư giả, tiền trợ cấp xã hội được Mai chia ra làm ba phần: hai phần ba nuôi sống gia đình với chi tiêu dè xẻn tiện tặn, một phần ba gởi về giúp những bạn bè đang đói khó khắc khoải trong lao tù, trong các vùng kinh tế mới....

Hai vợ chồng dắt nhau đi tìm việc, và không nản lòng. Tôi tìm được một chân rửa chén bát tại khách sạn Holiday Inn. Mai tìm được một chân làm bánh ngọt Donut. Chúng tôi tự túc được rồi, và từ đó mà tiến lên, tôi tìm được công việc khác trong hãng tiện có đồng lương khá hơn. Chúng tôi bắt liên lạc với bạn bè xa gần, và ao ước được đóng góp phần nào vào nỗ lực làm vơi khổ trên quê nhà. 

Thư của bạn bè hồi âm với lời lẽ bi quan, nhiều người khuyên tạm quên chuyện quê hương đi, mà lo cho đời sống bản thân và gia đình trước đã...

Nhiều đêm Mai thì thầm:
- Chúng ta có yên lòng hưởng hạnh phúc, tự do khi cả quê hương đang chìm đắm trong khổ đau? Chúng ta có quên được bao nhiêu người đang kỳ vọng chúng ta nơi quê nhà? Liệu chúng ta có làm được gì không hay chỉ mải mê lo cho đời sống riêng tư? ...

Chưa bao giờ tôi nghe Mai phàn nàn, sanh nạnh với tôi về công việc trong nhà.Chưa bao giờ nàng lên giọng sai bảo tôi hút bụi, quét nhà, rửa chén bát. Nếu rảnh, thì tôi làm, nếu tôi bận xem những trận thể thao hấp dẫn, thì thôi. Nhiều lúc Mai không cho tôi rửa chén bát, giành lấy mà làm, vì những lúc đó nàng rảnh rang.

Chúng tôi cùng làm việc nhà trong tinh thần chia sẻ, không phải trong trách nhiệm phân chia việc nào chồng làm, việc nào vợ làm. Mai chưa bao giờ tranh hơn thua với chồng. Nàng quan niệm rằng, vợ chồng không cần tranh hơn thua nhau, hơn chồng cũng không được gì mà chỉ tổ tình yêu bị tổn thương.. Chưa bao giờ Mai lớn tiếng hay khăng khăng quyết đoán việc gì. Khi nào cũng dịu dàng thảo luận và sẵn sàng chờ lúc thuận tiện để thuyết phục thêm. Tôi đã nghe thấy vợ nhiều người bạn, sẵn sàng xẵng tiếng với chồng, mở miệng ra là nói nặng lời, nói điều chua chát khó nghe, và tôi biết mình may mắn có vợ hiền ...Những lúc tôi gặp khó khăn ngoài xã hội, mang bực bội và cái không vui về nhà, Mai thường khuyên tôi rằng:

- Mục tiêu tối thượng của đời người là đi tìm hạnh phúc. Ði làm kiếm tiền cũng chỉ để mua hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực của cuộc sống là gia đình vui vẻ, ấm êm và dễ chịu. Không tội chi đem cái khó khăn bực bội của bên ngoài về nhà cho mất vui, mà phí phạm ngày tháng yên ấm của gia đình. Dù giàu sang danh vọng đến mấy, mà gia đình thiếu hạnh phúc thì đời không còn ý nghĩa gì.
Thế là tôi tìm được nguồn vui và yên tĩnh tâm hồn...


9.
Nhiều khi nằm bên nhau, tôi hỏi Mai:
- Sao hơn mười mấy năm sống bên nhau, chưa bao giờ em làm cho anh buồn lòng, chưa bao giờ em làm cho anh phải nổi giận. Em có khi nào buồn giận anh không?Nàng nói:
- Sách dạy cho em biết rằng, người cho thì được nhiều hạnh phúc hơn người nhận. Không cầu thì sẽ được, không đòi thì sẽ có. Biết vui với cái tương đối mà mình đang có, thì trở thành kẻ sung sướng nhất trong đời. Cho đi tình thương chân thành, thì được nhận lại bằng tình thương. Nhiều người đàn bà đòi hỏi ở chồng quá đáng, ngoài khả năng của chồng. Bao nhiêu cũng không thỏa mãn cả. Họ không nhìn thấy sự hy sinh của người khác, mà chỉ cố bươi móc lỗi lầm cỏn con của chồng để mà trách móc, giận hờn. Làm thế không có lợi gì cả, mà chỉ là cách phá hoại hạnh phúc gia đình hữu hiệu nhất.
Tôi thành thực mà nói rằng đã học được rất nhiều điều tốt của vợ tôi. Nàng càng dịu dàng, càng thu mình nhỏ lại, thì tôi càng thương yêu trang trải bù đắp cho vợ nhiều hơn. Mỗi khi đi làm về, thấy nét mặt tươi vui hân hoan của vợ, thì bao nhiêu mệt nhọc bực bội trong ngày đều tiêu tan.Khi tôi phạm phải lỗi lầm, hành động sai quấy, vợ tôi thường an ủi rằng, mình là con người chứ đâu phải là thần thánh chi, mà không có sai lầm. Ðừng buồn, cái thiệt hại này cũng là bài học tốt về sau. Những an ủi, khuyến khích tinh thần của vợ, làm cho đời sống tôi nhẹ nhàng, êm ái, thư dãn, không bị dồn ép, không bị áp lực cuộc sống, không có căng thẳng gia đình như nhiều bạn bè khác.
Trên bước đường tha hương, một lần vợ chồng Tuân-Lam ghé thăm chúng tôi. Tuân là bạn cũ, Lam là người xưa. Vợ tôi biết rõ mối tình cũ giữa tôi và Lam, nhưng nàng tin chồng, và rất lịch sự, vồn vã đón tiếp họ hết lòng. Có lẽ Mai cũng biết chuyện xưa của chúng tôi đã nguội lạnh từ lâu, chẳng ai còn tiếc thương chi. Tuân vẫn hiền lành phúc hậu như xưa, nét mặt chịu đựng. Ðêm khuya tôi vẳng nghe tiếng Lam đay nghiến dằn vặt chồng ở phòng bên cạnh, nói những lời thiếu lễ độ. 
Về sau, mỗi lần nghĩ đến Lam, lòng tôi phơi phới, vì may mắn, cuộc đời không phải gắn liền với một người đàn bà như Lam. Tôi biết ơn mẹ nhiều hơn. Kinh nghiệm sống của mẹ đã giúp cho cuộc đời tôi có hạnh phúc hơn. Và tôi biết thương yêu, nể trọng vợ hơn nhiều.


10.
Một chị bạn gia đình không được hạnh phúc, hỏi vợ tôi bí quyết để được chồng thương yêu nể nang. Mai cười mà nói:
- Không có bí quyết nào cả. Chỉ có câu chuyện sau đây, tôi thuộc nằm lòng từ thời còn đi học. Chuyện ở trong sách tập đọc của Pháp. Rằng:
- Có một anh nông dân đem bò ra chợ tỉnh bán. Suốt ngày không bán được phải dẫn bò về. Ðường xa mệt nhọc, con bò trở chứng không chịu đi. Có người gạ đổi con bò lấy con ngựa hồng tung tăng. Anh tưởng được ngựa sẽ thong thả dong cương ra về, nhưng con ngựa lạ chủ không chịu cho anh cưỡi và cũng trì kéo dằng dai. Một người khác dẫn con heo nái ngoan ngoãn đi qua, gạ đổi heo lấy ngựa, anh đổi liền.Ðường xa mệt nhọc, con heo cũng nằm ì không chịu đi, bí quá, anh đổi heo lấy một con dê nái. Con dê càng cứng đầu khủng khiếp, anh vật lộn với dê phờ phạc.Ðêm đã tối mịt mù, một hành khách đề nghị đổi dê lấy một con gà trống lớn. Vừa đói, vừa khát, vừa mệt, anh ôm con gà vào quán đổi lấy bữa cơm. Thế là một bữa ăn trả giá bằng một con bò. Ăn xong, anh nông phu thong thả ra về, vừa đi vừa ca hát khỏe khoắn.
Khi về đầu làng, có bạn quen hỏi đi đâu mà về khuya thế. Anh kể chuyện đi bán bò, và đổi con gà lấy bữa cơm. Người bạn hết hồn, khuyên anh khoan về nhà, mà bà vợ nổi cơn tam bành lên, không khéo vợ chồng xô xát gây ra án mạng. Anh nông dân bảo rằng, chắc vợ anh cũng thấy việc làm của anh là có lý. Người bạn ức quá, đánh cá một con bò, nếu chị vợ mà không gây gổ, thì anh nông dân sẽ được một con bò, còn ngược lại, phải mất lại một con bò khác. Người bạn đi theo núp bên ngoài nghe cuộc đối thoại của vợ chồng anh nông dân. Chị vợ hỏi anh, đã ăn gì chưa, đi đường có mệt lắm không, bò bán có được giá không? Anh đáp rằng đã ăn rồi, con bò không bán được mà trên đường về nó không chịu đi nên đã đổi con bò lấy con ngựa rồi. Chị vợ nói rằng, có con ngựa cũng tốt, nó sẽ kéo xe, giúp mình di chuyển mau chóng hơn. Anh chồng cho biết con ngựa không chịu cho anh cưỡi nên đã đổi lấy con heo nái. Chị vợ cũng tán thành ngay và còn dự trù con heo mùa sau sẽ sinh ra một bầy heo khác, rất có lợi. Anh chồng cho biết thêm, con heo cũng trở chứng không chịu đi nên đổi lấy một con dê cái. Chị vợ tiếp liền, là con dê cũng rất có lợi, từ nay mỗi sáng gia đình sẽ có sữa dê mà uống. Anh chồng lắc đầu và cho biết đã đổi con dê ương ngạnh lấy con gà trống lớn. Chị vợ anh nông phu tiếp rằng, có con gà cũng tốt, mỗi sáng nghe nó gáy cũng vui tai. Anh chồng bảo là buổi sáng ra đi không đem tiền theo, đói quá, đã vào quán đổi con gà lấy bữa cơm.
Nghe xong, chị vợ anh nông phu đến quàng hai tay, ôm vai chồng và nói rằng, anh làm như thế là phải. Lấy của che thân, chứ đừng lấy thân che của. Ði cả ngày mệt nhọc đói khát, không ăn chịu sao nổi. Em đã để sẵn khăn, múc sẵn nước, anh đi tắm cho khỏe."
...
Mai kết luận rằng: "Muốn được chồng thương cũng rất dễ, đừng bao giờ tranh hơn thua với chồng, việc gì đã lỡ, thì cho qua luôn, vui vẻ chấp nhận, và dịu dàng, nhường nhịn chồng là yếu tố căn bản để được chồng thương".


11.
Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất là vợ tôi. Ðời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ khôn ngoan dịu dàng. Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ, thầm so sánh tấm lòng hiền chân của vợ với trái tim của một vị nữ thánh. Phần nàng, thì luôn luôn: "Em chỉ muốn làm cái bóng nhỏ và âm thầm bên đời anh thôi". 


Mai chưa hề đọc thánh kinh, nhưng nàng đã biết chọn chỗ ngồi thấp nhất để được nâng lên cao nhất trong lòng chồng con.