Wikipedia

Kết quả tìm kiếm

Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014

lại vẫn chuyện 'di chúc' cùa bác!

2913. “Lùm xùm” về di chúc Hồ Chí Minh
 
Posted by adminbasam on 31/08/2014

Võ Văn Tạo
31-08-2014

Gần đến ngày 2-9-2014, trong lúc cuộc vận động học tập tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh do ĐCSVN phát động đang ráo riết, cũng là gần đến 2-9 – ngày HCM qua đời (trùng Quốc khánh), báo điện tử Vnexpress (từng tuyên bố dẫn đầu lượng người truy cập báo quốc doanh) ngày 30-8-2014 đăng bài: “Vì sao 20 năm mới công bố ngày mất Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
 
Phần đầu bài báo, tác giả Hoàng Thùy cho biết, HCM qua đời, di chúc lập tức được công bố, nhưng do hoàn cảnh lịch sử nên lúc bấy giờ có một số điều chưa được công bố. Việc công bố di chúc căn cứ cuộc họp bất thường chiều 3-9-1969 của BCHTW, giao Bộ Chính trị thực hiện. HCM chết lúc 9 giờ 47 phút sáng 2-9-69 – “ngày vui lớn của dân tộc” – Quốc khánh, nên Bộ Chính trị khóa 3 đã công bố ông qua đời vào thời khắc trên của ngày 3-9-69. Bài báo cho biết: 20 năm sau, Bộ Chính trị khoá 6 ra Thông báo số 151 (19-8-1989), cho rằng: nay cần công bố lại đúng ngày HCM qua đời là 2-9-69.
Tuy nhiên, bài báo phớt lờ sự kiện trước Thông báo 151 bốn tháng (5-89), thư ký riêng của HCM là Vũ Kỳ đã chủ động bàn bạc với đại tá Bùi Tín – Phó Tổng Biên tập báo Nhân Dân để “tự phát” đăng trên “Cơ quan ngôn luận của ĐCSVN” di chúc thật của HCM, bộ lộ nhiều điểm khác biệt cơ bản với di chúc đã được chính thức công bố. Và sau vụ lộ “bí mật cung đình” động trời ấy, Vũ Kỳ “lên bờ xuống ruộng”, Bùi Tín phải lưu vong mãi bên Pháp. Điều đó cho thấy, nếu không có vụ tiết lộ ấy, đến tận hôm nay, hàng triệu người dân VN – vốn sùng bái HCM do bị tuyên truyền, thêu dệt, tô vẽ thần thánh – vẫn thành tâm làm giỗ “cha già dân tộc” vào 3-9, và việc ra thông báo 151 là vạn bất dắc dĩ, do đã phát lộ ngoài ý muốn. Và theo tập tục thờ cúng giỗ chạp của tuyệt đại đa số người Việt Nam, “cha già dân tộc” bị bỏ đói gần nửa thế kỷ qua.
 
Theo đại tá Bùi Tín, ông Vũ Kỳ cho biết, sau khi HCM tắt thở, ông có đưa ngay cho ông Phạm Văn Đồng một phong bì lớn, chứa toàn bộ 4 văn bản di chúc HCM khởi thảo từ 1965 và các bản chỉnh sửa hàng năm. Nhưng ông Đồng không dám cầm, nói để đông đủ Bộ Chính trị có mặt, hãy đưa ra. Hôm sau, ông Vũ Kỳ đưa ông Lê Duẩn. Ông Duẩn đưa lại cho Bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn. Việc cắt xén, chỉnh sửa, lắp ghép, thêm nếm ra sao trước khi chính thức đưa ra công bố, do “cặp bài trùng” Duẩn – Hoàn chủ trì thu xếp.
 
Thông báo 151 có đoạn “Sở dĩ trước đây chưa công bố đoạn Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về yêu cầu hoả táng là thể theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân (nhưng đâu có xin ý kiến Quốc hội hay trưng cầu dân ý?
 
– TG), Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá 3) thấy cần thiết phải giữ gìn lâu dài thi hài của Bác để sau này đồng bào cả nước, nhất là đồng bào miền Nam, bạn bè quốc tế có điều kiện tới thăm viếng, thể hiện tình cảm sâu đậm với Bác. Điều này đã xin phép Bác (không thấy trưng ra bút tích?
 
– TG) nên được làm khác với lời Bác dặn“. Như vậy, có thể hiểu, nếu chi tiết này trong Thông báo 151 là trung thực, thì việc ướp xác, xây lăng tẩm cực kỳ tốn kém xa hoa phung phí như vua chúa Ai Cập đã được lên kế hoạch công phu và chu đáo từ thuở HCM sinh thời, và “cha già dân tộc” đã đồng ý (điều này phù hợp với thực tế: HCM vừa tắt thở, đám chuyên gia kỹ thuật ướp xác của Liên Xô túc trực trước đó, kịp thời tác nghiệp). Trong khi đó, các tài liệu chính thức do nhà nước công bố cho biết, đến tháng 5-69, HCM vẫn chỉnh sửa lần cuối cho bản di chúc. Trong đó nguyện vọng: hỏa táng, lấy tro cốt chôn trên đồi cao ở 3 miền cho người dân đến viếng, không xây lăng mộ hoành tráng tốn kém, tạo tiền lệ tiết kiệm, vệ sinh, trong hoàn cảnh VN đất chật người đông…cho toàn dân noi theo… vẫn có trong di chúc, nhưng đã bị cắt xén trong bản công bố chính thức 1969. Như vậy, việc không ít người nhận định HCM – “kịch sĩ tài ba hiếm có” – là không phải vu vơ. Trường hợp ngược lại, nếu HCM không hay biết gì về kế hoạch xây lăng tẩm, thì chi tiết “đã xin phép Bác” trong Thông báo 151 của Bộ Chính trị khóa 6 là man trá. Logic hiển nhiên: trường hợp nào cũng không tránh được “kịch”! Không rơi vào “cha già dân tộc”, thì cũng “các học trò xuất sắc và trung thành”(!).
 
Trong di chúc, HCM viết, kết thúc chiến tranh, nhà nước miễn thuế nông nghiệp 01 năm cho nông dân. Chủ trương này không phải HCM “phát minh”. Các triều đại thời phong kiến trước đây thường áp dụng, để khoan sức dân đã trải hy sinh và đóng góp đến kiệt quệ vì xã tắc của triều đình suốt binh đao khói lửa. Dĩ nhiên, miễn thuế thì vua quan phải cắt giảm chi tiêu. Thế nhưng, nội dung này cũng bị xén, chỉ phát lộ sau 20 năm bởi Vũ Kỳ và Bùi Tín. Và được người ta bất đắc dĩ “sửa sai” sau đó bằng giảm 50% thuế nông nghiệp trong 2 năm liên tiếp. Qua đó cho thấy, việc những người cộng sản vẫn rao giảng rằng các chế độ phong kiến đều hết sức hà khắc, bóc lột nhân dân đến xương tủy (để phát động “đả phong”), là rất ngược đời.
 
V.V.T.
 

Xác ướp HCM, thay vì hỏa táng như Di chúc! [posted by Thienngon]

THƯ GỬI BẠN TA của Bùi Bảo Trúc 29-8-2014


 
Các bài viết hàng tuần của Nhà Báo Bùi Bảo Trúc trong mục Thư Gửi Bạn Ta
*

KHÁCH ĐẾN CHO TA …MỘT TẤM HÌNH

Phạm Quang Nghị, một cán bộ cao cấp của Việt Nam (bí thư thành ủy Hà Nội) trong chuyến viếng thăm Mỹ mới đây (úp mở là một chuyến đi ngoại giao thay cho Phạm Bình Minh vì một lý do nào đó Minh không đi Mỹ được) đã giở ra một trò hết sức trẻ con và mất dậy. Việc làm của y là một việc làm vô giáo dục, bất chấp mọi nghi lễ thủ tục ngoại giao cơ bản đồng thời lại cho thấy rõ cái bản chất vô giáo dục và trẻ con của y và những … con tương cận.
Về nước thế nào Nghị chẳng khoe nhắng lên rằng nó đã cho tên giặc lái John Sney Ma Can (sic) một đòn đau mà tên thiếu tá không quân Mỹ này chỉ biết cười nhận món quà của nó.

Nghị mang tặng thượng nghị sĩ John McCain bức ảnh chụp tấm bia dựng ở bờ hồ Trúc Bạch, nơi ông McCain bị bắn rơi trong một phi vụ oanh tạc nhắm vào Hà Nội hôm 26 tháng 10 năm 1967.
Chuyện ông McCain bị bắn rơi, rồi sau đó bị giam ở Hỏa Lò chắc không phải là kỷ niệm vui trong đời binh nghiệp của ông. Máy bay bị bắn rơi xuống hồ, một đám đông vớt ông lên và đánh ông trọng thương. Tại nhà giam, ông bị hành hạ rất dã man, mãi sau hơn 5 năm ông mới được thả.
Về nước, ông không đem lòng thù oán gì kẻ thù cũ. Chính ông hồi thập niên 90 là người đã vận động hết mình ở thượng viện để Hoa kỳ bang giao với Việt Nam.
Hà Nội đáng lẽ phải ghi nhớ điều đó để biết ơn ông McCain. Đi thăm Hoa kỳ thì phải tìm gặp ông mà thăm hỏi ân cần cho phải lẽ.
Phạm Quang Nghị đến thăm thượng nghị sĩ McCain và tặng ông một bức ảnh chụp tấm bia đắp bằng xi măng ở chỗ chiếc máy bay chiến đấu phản lực A-4 Skyhawk của ông McCain bị bắn hạ. Bức ảnh không có được cái khung cho tử tế. Nhưng thôi, chỉ riêng chuyện mang tặng tấm ảnh ấy cũng đã là một việc làm đủ mất dậy rồi. Moi lại chuyện máy bay của ông McCain bị bắn hạ là một việc làm hoàn toàn không cần thiết trong một chuyến đi không mang tính khiêu khích, mà trái lại, lẽ ra phải là một chuyến viếng thăm thân hữu trong lúc chỉ có thượng viện Mỹ ra nghị quyết bênh Việt Nam khi Bắc kinh đưa giàn khoan Hải Dương 981 tới hải phận Việt Nam.
Đó là một trò vừa tiểu nhân vừa mất dậy.
Hãy đọc nguyên văn tấm bia có những hàng chữ nổi này: “NGÀY 26-10-1967 TẠI HỒ TRÚC BẠCH QUÂN VÀ DÂN HÀ NỘI ĐÃ BẮT SỐNG TÊN JOHN SNEY MA CAN THIẾU TÁ KHÔNG QUÂN MỸ LÁI CHIẾC MÁY BAY A 4 BỊ BẮN RƠI TẠI NHÀ MÁY ĐIỆN YÊN PHÚ ĐÂY LÀ MỘT TRONG 10 CHIẾC MÁY BAY BỊ BẮN RƠI CÙNG NGÀY”.
Ngoài chi tiết vô học không biết chấm câu cho gẫy gọn, văn phạm lem nhem, những chữ trên tấm bia còn để lại không ít những sai sót láo lếu.
Trước hết là những lỗi khi viết tên của ông McCain. Tên lót của ông là SIDNEY chứ không bao giờ là SNEY. Họ của ông là McCAIN (McCain) không bao giờ là MA CAN.
Kế đó là những chi tiết về chức vụ của ông. John McCain là trung tá hải quân thì bia lại ghi là thiếu tá không quân Mỹ. Máy bay của ông cất cánh từ hàng không mẫu hạm USS Oriskany thì ông là không quân bao giờ?
Tấm bia có vỏn vẹn 11 dòng mà để lại bằng ấy lỗi rồi chụp ảnh mang tặng một người rất tử tế với Việt Nam thì chỉ có cái thứ mất dậy, vô giáo dục mới dám làm.
Mà ấy là chưa nói thêm chi tiết chiếc A-4 do ông McCain lái cũng không do “quân và dân Hà Nội” bắn hạ như đã ghi trên tấm bia. Việc bắn rơi chiếc A-4 Skyhawk là công của một người Nga tên là Yuri Trushyekin, một huấn luyện viên về phi đạn địa không mà Nga gửi sang giúp Hà Nội. Năm 2008 Yuri Trushyekin nói trên một đài truyền hình và trên mấy tờ báo Nga rằng chính ông đã bắn chiếc phi đạn phòng không cuối cùng sau khi “quân và dân Hà Nội” bắn hết 12 chiếc toàn trượt ra ngoài mục tiêu. Ông Trushyekin hiện đang sống trong một khu nhà nghèo ở St Petersburg.
Đúng là chơi trò mất dậy mà cũng không nên thân, chỉ lòi thêm một đống dốt nát và vô học là như vậy.
Thế nào ở Hà Nội bây giờ lại chẳng đang có thằng huyênh hoang nổ bậy như thế này: “Tớ chơi đểu cho thằng giặc lái Ma Can tấm ảnh chụp tấm bia ở hồ Trúc Bạch mà nó chỉ biết cười… đéo biết mình chửi nó mới là ngu chứ… Ấy Mỹ nó ngu vậy đấy!”

BÁC SỐNG MÃI TRONG QUẦN

To screw là một động từ khá ly thú trong tiếng Anh. Động từ này gốc từ danh từ screw là con ốc xoáy. Vặn nó theo chiều kim đồng hồ thì nó đóng, nó tiến vào, nó kẹp dính liền hai vật lại với nhau. Vặn ngược thì nó mở ra…
Từ những nghĩa căn bản đó, động từ screw được cho mang thêm một nghĩa khác, là hành động giao hợp giữa nam và nữ. Rồi từ nghĩa đó, động từ screw còn có nghĩa là làm hư hỏng, gây thiệt hại, tạo ra những điều xấu xa, hậu quả không tốt đẹp …
Khi tổng thống Nixon dính vào vụ Watergate để cuối cùng phải từ chức, phe Dân Chủ liền đem chuyện bê bối đó ra để tấn công tiếp vào phe Cộng Hoà, đồng thời cũng bào chữa cho tổng thống Kennedy trong những vụ tình ái lăng nhăng bằng câu chơi chữ rất hay: We would rather him not do it to the country.
Đại để nghĩa là người của chúng tôi (Kennedy) quả là có làm những chuyện ấy với một vài phụ nữ, nhưng thà ông ấy làm (screw) với phụ nữ còn hơn là làm chuyện đó (screw) với nước Mỹ. 
Ông Kennedy hết với Marilyn Monroe, rồi Jayne Mansfield, Angie Dickinson và hàng chục phụ nữ khác. Nhưng theo phe Dân Chủ thì những chuyện đó có … chết ai đâu. Gần đây hơn, ông Clinton cũng mắt trước mắt sau, Hillary cứ vắng nhà một lúc là có chuyện ngay. Hết Paula Jones, tới Gennifer Flowers, rồi Monica Lewinsky…
Trong khi đó, mấy ông Cộng Hoà thì không biết làm ăn gì cả. Từ Eisenhower tới Nixon, rồi tới ông Reagan, qua ông Bush cha tới Bush con chẳng làm được gì đáng kể cả. Chỉ có ông Nixon là dính nặng vào vụ Watergate đến nỗi phải rời chức vụ trong nhục nhã.
Thế mới biết bác Hồ bảnh thật. (người viết nhất định cố tình không viết hoa chữ “bác”)
Một người rất thân cận với bác, người từng viết tiểu sử cho bác, hay hơn là cuốn chính bác nham nhở viết về bác, dùng tên của Trần Dân Tiên (chính là bác chứ còn thằng chó dại nào nữa) là ông Trần Đĩnh vừa tiết lộ nhiều chi tiết ít người biết về bác trong cuốn tự truyện của ông nhan đề “Đèn Cù”.
Một trong những chi tiết đó xin được kể ra ở đây.
Ông Trần Đĩnh cho biết để sửa soạn cho chiến dịch cải cách ruộng đất, trung ương mở một lớp chính huấn cho các trí thức trong cũng như ngoài đảng trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1953. Hồ Chí Minh có đến thăm những buổi học tập và liên hoan này, và trong một buổi tối, khi mọi người hô to “Bác Hồ muôn năm” thì ông ta sửa lại là “Bác Hồ muốn nằm”, và lấy tay chỉ vào đầu rồi nói: “Từ đây thì Bác già, nhưng từ đây (tay chỉ vào bụng) thì Bác trẻ.”
À như vậy là đồ đạc của bác còn tốt chán. Bác cũng đem đồ nghề ra dùng đều đều chứ nào phải bác vì nước vì dân quên những trò … vui đó như bọn đàn em vẫn lôi ra để bịp cả nước đâu.
Này nhé ở bên Tây, bác rửa bát về thì có một chị đầm cho bác ấm bụng. Sang Liên Xô thì bác có vợ của Lê Hồng Phong là chị Minh Khai xài đỡ. Chạy sang Trung quốc thì bác cưới Tăng Tuyết Minh. Về nước thì có mẹ của Nông Đức Mạnh, rồi hết chị Tày này tới chị Tày khác, rồi lại chị Nông Thị Xuân đẻ cho bác thằng cu rồi bác để cho Trần Quốc Hoàn sái nhị mấy cái trước khi dàn cảnh cho xe cán chết quăng xác ra đê Yên Phụ…
Còn những vụ lẻ tẻ khác thì kể ra không hết. Trẻ không tha, già không thương, bác làm tuốt luốt. Các cháu nhi đồng gặp bác là bác “bú mồm” đến nơi đến chốn. Quen thói, bác đi Indonesia, bác giở trò nỡm của mấy anh Cộng sản ra ôm hôn các thiếu nữ Indonesia khiến chủ nhà phải nói thẳng với bác là đừng làm như thế nữa vì việc đó là hành động vi phạm luật Hồi giáo (nhật báo The Strait Times số đề ngày 8 tháng 3 năm 1959). Một tờ báo khác, tờ Harian Habadi thì viết rằng giám đốc nghi lễ của bộ ngoại giao đáng lẽ đã phải nói nhỏ vào tai bác rằng bác nên tôn trọng tục lệ của người Hồi giáo. Cũng may mà Sukarno tổng thống Indonesia cũng là một anh dê không kém chứ nếu không thì đã xẩy ra một vụ incident diplomatique rồi chứ không đùa.
Như vậy, bác screw đủ thứ người, không tha bất cứ ai. Và bác screw cả đất nước của chúng ta chứ bác có tha ai đâu.
Bác làm như đứa nào cũng ngỏn ngoẻn rít lên với bác rằng “Đừng tha em đêm nay… đừng tha em đêm nay” không bằng!

Mấy ông tổng thống Mỹ thì đã ăn thua gì!

NguoiBuonGio - một chuyến đi Tàu của Lê Hồng Anh!

Chủ Nhật, ngày 31 tháng 8 năm 2014

Tào lao chuyến đi của Lê Hồng Anh.

Ông Lê Hồng Anh thường trực BBT đi Tàu, yết kiến ông Tập Cận Bình, cầm tờ giấy do BCT thống nhất soạn sẵn đọc.

Nhiều người chê ông LHA không có bản lĩnh ngoai giao, nhưng hầu hết các vị BCT VN ra nước ngoài đều đọc giấy như vậy. Nhưng trong mối quan hệ anh em Tàu - Việt mà đọc như vậy cũng có nghĩa chả tình cảm gì cả. Cũng khách sáo, lệ bộ như các nước khác. Thông tin cũng không có gì bí mật. Nhìn thì tưởng anh em, nhưng xem kỹ thì cũng như người ngoài với nhau.

Ông LHA đi với danh nghĩa đặc phái viên của ông TBT Nguyễn Phú Trọng. Nghĩ thì cũng buồn cười, tự nhiên bây giờ ông TBT lại có một đặc phái viên đi sang gặp TBT Tàu.

 Thử đặt địa vị thiên tử của Tập Cận Bình, phải ngồi tiếp một sứ giả nước nhỏ, sứ giả cầm sớ đọc. Oai hay không oai.?

Thời phong kiến thì đúng là oai, thiên tử đón sứ giả chư hầu.

Nhưng thời nay thì liệu TCB có phải mất thì giờ ngồi tiếp một đặc phái viên của một nước nhỏ đến đọc một bài soạn sẵn không.?

Chức của Lê Hồng Anh mang tiếng là uỷ viên BCT, nhưng thực ra là quyền hạn mờ nhạt, đến hết nhiệm kỳ này là về hạ cánh an toàn. Một người chả còn cái gì để hướng đến phía trước nữa. Tàu khó có thể lợi dụng hứa hẹn được gì.

Cái tư cách đi của ông Lê Hồng Anh và địa vị cá nhân ông Lê Hồng Anh cùng với tương lai chính trị của ông, đến tiếp kiến Tập Cận Bình với bài diễn văn đọc sẵn. Cho thấy Đảng CSVN cũng chả mặn mà gì với Tập Cận Bình.

Nếu người đi là ông Phạm Quang Nghị, Nguyễn Bá Thanh...những nhân vật tương lai tới còn lên cao thì, có thể nói trong thời gian tới VN còn gắn bó mật thiết với Tàu hơn là có cơ sở. Một chuyến đi của Lê Hồng Anh chỉ là thủ tục kết thúc cho một chương trình đã lên sẵn mà thôi. Chuyến đi như thế chả thể  nói là mang lại việc gần nhau hơn hay xa nhau hơn.

Mấy cái chuyện đền bù do biểu tình bạo động và chuyện xử Bùi Hằng là món quà nhỏ, dù không thân thiện nhưng đi sứ Tàu thì phải có quà, cái lệ của chư hầu mấy chục năm nay đều thế, không dễ đi tay không được. Cũng không thể nói là vì thế mà đánh giá Việt sát Tàu hơn. Mọi chuyện chỉ như trước kia. Quan hệ Việt Tàu chắc chắn sau vụ giàn khoan chỉ như cũ là cùng, khó có thể tiến thêm được nữa.

 Có một điểm mà những nhà quan sát nào chú ý, sẽ thấy ban lãnh đạo VN không ưa gì Tập Cận Bình.

Thường thì báo chí VN  được ban tuyên giáo trung ương chỉ đạo đưa tin bỡ đợ những động thái của Nga, Tàu trong cũng như ngoài nước.  Nhưng riêng lần này, Tập Cận Bình mở một cuộc chống tham nhũng rất lớn. Lẽ ra theo thông thường, báo chí Vn phải ca ngợi công cuộc của Tập. Phải ca ngợi mô hình mà Tập đang làm rất quyết liệt.

Trái lại nhiều tin tức tuồn ra, hoặc kể cả trên báo chí chính thống đưa tin nội dung đều khiến người VN đọc có cảm tưởng là Tập đang thanh trừng bè phái, hạ bệ Giang. Thâu tóm quyền lực về cho mình. Chứ không phải Tập Cận Bình và ĐCSTQ đang đề cao nghiêm minh, kiên quyết làm trong sạch Đảng, diệt trừ bè lũ tham nhũng.

Thậm chí có những tin từ đâu đầy hào hứng khi nói việc quân đội âm mưu đảo chính Tập Cận Bình.

Lý do VN không thân Tàu hơn, ngoài việc giàn khoan ra, việc ấy chỉ là phụ. Ai cũng biết ĐCSVN lo tính mạng của mình hơn tất cả. Lý do không thân Tàu hơn lúc này là vì đường lối của Tập Cận Bình trong đối nội.

Lãnh đạo VN lo ngại gắn bó với Tập bây giờ, sẽ phải thực thi những gì Tập đang làm, phải ca ngợi và thực hiện nó. Trong khi ở VN tham nhũng tràn lan từ cấp cao nhất. Giờ mà học và làm theo Tập thì có khi tính mạng của ĐCSVN không trụ nổi. Cho nên Vn không mặn mà gì với Tập qua việc để ông Lê Hồng Anh, một người đã sắp hết thời đi sứ. Cũng không cho báo chí ca ngợi rầm rộ hình ảnh uy phong trấn áp, diệt trừ tham nhũng của Tập, trái lại còn mập mờ cho rằng Tập thanh trừng bè phái để tập trung quyền lực.

 Nếu vậy, đằng sau chuyện VN không thân Tàu hơn, chả có gì đáng mừng.

Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2014

"Sau Giải Phóng" Thi sĩ VŨ-HOÀNG-CHƯƠNG Bị CS Bắc Việt Bức Hại !

TẠI SAO VŨ-HOÀNG-CHƯƠNG BỊ VIỆT CỘNG BẮT VÀO TÙ KHÁM LỚN? -

Phạm-công Bạch, CVA 57
Thi sĩ Vũ-hoàng-Chương
    
Đã là cựu học sinh Chu-văn-An, ai không biết thi sĩ Vũ-hoàng-Chương là một vị giáo-sư Việt Văn rất đáng mến. Quả thật vậy, trong cuộc đời thi sĩ, Ông đã từng xuất bản cả chục tập thơ và kịch thơ , cũng như trong nghề dạy học, ai đã từng là học trò Ông  thảy đều thương kính, coi Ông như một vị giáo sư có đầy đủ tác phong về đạo đức và sư phạm. Hơn thế nữa, hãy xem nhà văn Song-Thao (cũng là một cựu học sinh Chu-văn-An) mô tả Ông trong tập truyện “Chốn cũ” vừa xuất bản:
   “Thầy đi quanh lớp bằng những bước chân nhẹ nhàng, đầu nghểnh cao, mắt xa vắng, giảng bài bằng cái giọng nhừa nhựa thanh thanh. Có những lúc mắt thầy như nhắm hẳn lại, đầu lắc lắc từng chặp. Những lúc đó thầy như thoát hồn bay về một trời thơ nào đó. Thầy say thơ. Thầy ngâm thơ như một người đồng thiếp. Như không còn thầy. Như không có trò. Như không phải là một lớp học. Chỉ có một cõi thơ lồng lộng bát ngát. Chúng tôi cũng thấm thơ. Vô cùng nồng nàn là những dòng thơ đất Việt. Chỉ có tiếng chuông báo hết giờ học mới có thể kéo thầy trò ra khỏi cơn mê văn chương…”
Làm thơ đã hay, dạy học thì say mê như thế, Vũ-hoàng-Chương không hề làm chính trị. Hồi toàn quốc kháng chiến  năm 1946, Ông cũng chỉ tản cư khỏi thành phố một thời gian rồi  lại hồi cư, chứ không ra bưng. Từ năm 1954 khi di cư vào Saigon, Ông cũng không tham gia một đảng phái nào. Thế nhưng cuộc đổi đời ” tháng tư đen” đã đưa Ông vào tù  và chỉ được tha về khi kiệt lực gần chết. Chúng ta thử tìm hiểu nguyên do nào đã đưa Ông vào vòng lao lý gần một năm trời. Với thân hình gầy còm và “ả phù dung” dằn vặt làm sao Ông sống nổi. Kể ra cũng có nhiều lý do xa gần.
 
Bài thơ hoạt cảnh Tết Con Rồng.
 
Miền nam ViệtNam bị mất về tay cộng sản tháng tư năm 75 thuộc năm Mão. Cuộc đổi đời đã gây ra nhiều cảnh éo le cả về hoàn cảnh xã hội lẫn nhân tình thế thái. Vũ-hoàng-Chương bị kẹt lại và Ông đã mắt thấy tai nghe và ngay cả chính Ông cũng là nạn nhân của sự thế . Cuối năm bước sang năm Thìn là tết con rồng, Ông đã làm một bài thơ tức cảnh như sau:
Vịnh tranh gà lợn
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành,
Gà lợn om sòm rối bức tranh.
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh.
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành.
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.
Đây đích thực là hoạt cảnh của miền Nam sau mấy tháng về tay chủ mới: Chính quyền tiếp thu vào tay cộng sản chưa hoàn toàn kiểm soát được xã hội vốn vẫn thoải mái trong nếp sống từ bao năm qua. Dân chúng vẫn hoài nghi cách mạng cho nên tình thế chưa thấy gì làm sáng sủa. Mặt khác đa số người thuộc chế độ cũ  không tin miền Nam có thể dễ dàng rơi vào tay cộng sản như vậy nên thầm kín trong lòng vẫn ước mong lật ngược thế cờ khỏi cảnh tối tăm hiện tại.
Với bối cảnh xã hội như vậy, kẻ hồ hởi, người âm thầm cho nên nẩy sinh ra lắm vẻ, biết ai là ai bây giờ. Bức tranh xã hội thật là rắm rối. Cộng sản đi đến đâu thì mạng lưới công an rình rập nhòm ngó tới đó. Kẻ thân trong nhà cũng còn nghe lén để báo cáo lập công thì còn biết tin ai bây giờ. Cho nên nhìn bề ngoài đố biết lòng dạ ai thế nào.
Ngay như chính tác giả cũng đã là nạn nhân của lòng người đổi trắng thay đen. Số là Vũ-hoàng-Chương và gia đình đã từ lâu vẫn ở nhờ trên căn gác nhỏ trong biệt thự của bà Mộng-Tuyết (phu-nhân thi sĩ Đông-Hồ), Ông đã từng đặt tên đây là “gác mây” để Ông bạn với “ nàng thơ” và “nàng tiên nâu”. Thế nhưng từ khi có cán bộ từ ngoài bắc vào, Bà Mộng-Tuyết thì hồ hởi tiếp đón, còn Vũ-hoàng-Chương thì lặng lờ như không Cho nên Bà muốn đỡ phiền lụy sau này đã ngỏ ý muốn Ông dời nhà đi ở chỗ khác. Chính vì vậy mà thi sĩ họ Vũ đã phải dời sang Khánh hội ở nhờ nhà em vợ là thi sĩ Đinh-Hùng. Ôi tình nghiã bao năm như vậy mà chỉ vì một chút “quáng” đã làm cho huynh đệ ly tan ! Riêng đối với Ông, con người còn tình người, chân thật và chất phác thì vẫn “một tấc thành” không a dua xu nịnh với ai.
Bây giờ xuân và tết đến, thôi hãy quên hết moi sự mà nghe khúc tân thanh của năm con rồng. Theo tôi, ý giả của câu cuối bài thơ này là như vậy; nhưng nghĩ kỹ hơn,nếu chúng ta ở Saigon trong thời điểm đó thì “khúc tân thanh” ở đây chính là những loa tuyên truyền ra rả sáng chiều mà cộng sản đặt ở khắp phường phố. Cũng có thể nghĩ xa hơn, khúc tân thanh chỉ là sự rút gọn của “khúc Đoạn trường tân thanh” mà từ nay còn phải ngâm mãi. Với một bài thơ xuân như thế được phổ biến ra ngoài, thi sĩ Vũ-hoàng-Chương tránh sao khỏi bị bắt vì tội phản động. Nhưng chưa hẳn như vậy. 
 
Món  quà chiêu dụ bất  thành .
 
Hãy trở lại vài chục năm về trước, chúng ta được biết thi sĩ Vũ sinh năm 1916. Hai chục năm sau vào thời điểm thi sĩ trưởng thành thì phong trào thi ca lãng mạn nở rộ do ảnh hưởng của văn chương Pháp. Cùng thời với Vũ-hoàng-Chương còn có rất nhiều văn nhân thi sĩ khác cùng nổi tiếng trên văn thi đàn, trong đó có Huy-Cận (tên thật là Cù-huy-Cận) sinh năm 1919. Huy-Cận cũng là một nhà thơ nổi tiếng, điển hình là bài “Ngậm ngùi” đã được phổ nhạc mà chúng ta thường nghe. Huy-Cận kém Vũ-hoàng-Chương ba tuổi và xuất bản tập thơ đầu “Lửa Thiêng” sau khi Vũ-hoàng-Chương đã có thi tập “Thơ say” và “Mây” đang sắp phát hành. Vì thế Huy-Cận coi thisĩ Vũ như anh.
Hai người cũng chơi với nhau khá thân. Một hôm Huy-Cận bất ngờ gặp Vũ-hoàng-Chương và  rủ Ông đi ăn phở. Vì mới ra tập thơ đầu lại cũng có ý thân mật so sánh nên Huy-Cận nửa đùa nửa thật vỗ vai Vũ-hoàng-Chương nói rằng:
“Đã lâu lại gặp ‘chàng Say’
‘Lửa Thiêng’ xin đốt chờ ‘Mây’ xuống trần
 Vũ-hoàng-Chương cũng hơi khựng một chút, nhưng vui vẻ đáp ngay:
‘ Mây’ kia chẳng chịu xuống  trần
Lửa ơi  theo khói lên gần với  ‘Mây’.
Hai người đối đáp với nhau như thế, vừa có ý kiêu ngạo, vừa có ý thân thiện, thật xứng đôi. Rồi thời gian trôi qua, năm 1946 Huy-Cận ra bưng theo kháng chiến dùng thi tài của mình để phục vụ bác và đảng, được sủng ái nên đã có thời leo lên đến chức Thứ trưởng bộ Văn hóa. Vũ-hoàng-Chương thì chạy tản cư, cũng có làm một số bài thơ ái quốc, nhưng sau đó hồi cư về lại Hanoi rồi di cư vào Saigon theo hiệp định Genève năm 1954, vẫn tiếp tục nghiệp thơ và sinh sống bằng nghề dạy học.
Vật đổi sao dời, năm 1975 miền nam bị bỏ rơi và cộng sản thắng đại cái “đại thắng muà xuân”.Và hai thi nhân lại có dịp gặp nhau trong hoàn cảnh éo le quốc cộng. Huy-Cận được cử vào Saigon cùng với một phái đoàn với mục đích thăm dò và chiêu dụ các văn nghệ sĩ miền Nam.
Dĩ nhiên người mà Huy-Cận muốn gặp đầu tiên là Vũ-hoàng-Chương cũng vì tình bạn cũ và cũng nghĩ rằng nếu chiêu dụ được Vũ theo cách mạng thì mình lập được công lớn. Vì vậy Huy-Cận đã sửa soạn cuộc thăm viếng rất trọng thể. Lễ vật đến thăm Vũ-hoàng-Chương gồm một chai rượu quí, một lọ đầy thuốc phiện và cũng không quên mang theo một bức hình Hồ chí Minh. Rượu và thuốc thì để biếu bạn, còn bức hình thì Huy-Cận ước mong sẽ được Vũ-hoàng-Chương đề tặng cho mấy vần ca ngợi để có bằng chứng báo cáo lấy công đầu.
Cuộc gặp gỡ diễn ra tốt đẹp sau bao năm xa cách. Vũ-hoàng-Chương đón Huy-Cận như một bạn cố tri nồng nàn vui vẻ. Sau khi Huy-Cận ngỏ ý muốn Vũ đề thơ thì Ông trầm mặc không nói gì. Huy-Cận khi ra về có hẹn ba ngày sau sẽ cho người đến xin lại bức hình, Vũ-hoàng-Chương cũng chỉ ậm ừ tiễn bạn.
Đúng ba ngày sau khi nhân viên của Huy-Cận tới thì thấy trên bàn vẫn còn y nguyên hai món lễ vật và bức hình, Vũ-hoàng-Chương không hề đụng tới mặc dù rượu với thuốc phiện đối với Ông là rất quí hiếm. Còn bức hình thì vẫn chỉ là bức hình như khi đem tới, không một nét chữ đề. Được báo cáo lại, dĩ nhiên là Huy-Cận tím mặt. Nhưng Ông biết tính họ Vũ là ngưòi không dễ lung lạc nên cũng đành thôi.
Vũ-hoàng-Chương, ông qủa là một người có khí phách. Ông có một cơ hội an thân nhưng Ông đã không làm, chỉ vì tấm lòng Ông “một tấc thành” nên Ông phải giữ tiết tháo không a dua theo thời cuộc. Thế là lại có thêm một cái ‘họa’. Nhưng như thế vẫn chưa hết.
 
Chê thơ Tố-Hữu và dạy cộng sản cách làm thơ.
 
Theo một bài đăng  trên “net”  của tác giả Sông-Lô  viết về Vũ-hoàng-Chương nhận xét thơ Tố-Hữu,  được biết phái đoàn từ bắc vô nam cùng với Huy-Cận như đã nói ở đoạn trên còn có nhiều nhân vật sáng giá khác như Tố-Hữu, Hoài-Thanh, Xuân-Diệu, Vũ-đình-Liên…. Phái đoàn được ký giả nằm vùng Thanh-Nghị tiếp đón và tổ chức một đêm ”họp mặt văn nghệ” với các nhân vật gạo cội miền Nam để cùng đánh giá văn hoá hai miền ngõ hầu thống nhất tư tưởng về một mối. Buổi họp này Vũ-hoàng-Chương đã được mời và có tham dự. Đề tài được đưa ra là mấy câu thơ của Tố-Hữu đã làm để khóc Stalin khi ông trùm đỏ Nga-sô  này chết vào năm 1953. Hai câu thơ đã gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp cùng đầy đủ tiếng khen chê đối với  tên trùm văn nghệ cộng sản này là câu:
“Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười “
Thanh-Nghị với tư cách nằm vùng theo cộng sản từ lâu, coi như đại diện miền nam, dĩ nhiên ca ngợi thơ Tố-Hữu hết mình. Rồi lần lượt đến Xuân-Diệu, Huy-Cận, Vũ-đình-Liên từ ngoài bắc vào lên diễn đàn thì khỏi nói. Cũng cần có một tiếng nói miền nam cho xôm tụ, cho nên Hoài-Thanh khẩn khoản mời Vũ-hoàng-Chương lên phát biểu với dụng ý là họ Vũ, một thi bá đương thời, nhưng vốn người trầm mặc hiền hoà chắc cũng chỉ vuốt theo mà không nói điều gì nghịch ý. Xin trích nguyên văn sau đây một đoạn của Sông-Lô:
“Ai đã biết Vũ-hoàng-Chương ắt phải biết cái đanh thép bên trong tấm thân nhỏ bé ọp ẹp của ông. Đôi ba lần tạ từ không được, đành nhảy vào ưỡn ngực “ hò kéo pháo”, nhưng trước khi vào cuộc họ Vũ đã yêu cầu cử tọa thông cảm nếu có chỗ nào thất thố vì ông sợ rằng những gì ông muốn trình bày sẽ làm tổn thương cái  ‘sáng giá’  của đêm họp  ‘văn nghệ đặc biệt’ này, bởi vì ‘tất tần tật’ đã thẩm định rồi.”
 
Sau đây là lời của Vũ-hoàng-Chương:
 
“Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình, để hồn trí phản ứng theo thất tình con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.
Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được ‘đóng khung’ tự bao giờ trong tâm cảnh mình, Tố-Hữu đã xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc rất tự nhiên, đạt đến một mức độ điêu luyện cao. Lời thẩm định của Thanh-Nghị thật xác đáng,tôi chịu. Nhưng thơ không phải chỉ có thế. Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đã có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên lời. Tình tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ, nói cho đến nơi, là ở đây, có nghiã là thơ phải thực.
 Tố-Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ Việtnam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việtnam yêu cụ Stalin thay cho mình. Cũng chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca; nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việtnam có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không?
Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài ‘Đời đời nhớ Ông’ Tố-Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:
“Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin “
Chắc chắn là không có một bà mẹ Việtnam nào, kể cả Bà Tố-Hữu, mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu sau ta đang mổ xẻ.
 Một tình tự không chân thực, dù đươc luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay,  mà chỉ là thơ khéo làm; đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi một tuyên truyền nào đó. Tố-Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việtnam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm“.
Vẫn theo lời kể của Sông-Lô thì  lời thẩm định này đã gây sôi nổi trong đám thính giả có mặt hôm đó. Muốn phản bác luận điệu của Vũ-hoàng-Chương, có người đã yêu cầu Ông nói về thơ để hòng bắt bẻ này nọ, nhưng Ông vẫn ôn tồn phát biểu:
“Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những tình tự thực. Không chấp nhận loại thơ tình tự hoang. Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo; nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lý cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.
“Tôi xin nhắc; sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi ca; vì có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian,thời gian, chân lý cuộc sống.”
Sau đêm hôm ấy, hình như có một buổi họp khẩn cấp của các “nhân vật then chốt” cộng sản, và  Vũ-hoàng-Chương đã bị bắt. Như vậy cái tội phản động của thi sĩ họ Vũ không phải là một mà có đến ba: bắt đầu từ bài thơ thời sự , kế đến không nể nang tình bạn và sau cùng là đã dạy khôn cho kẻ đang thắng thế. Theo Sông-Lô thì Vũ-hoàng-Chương không phải là người dại, cũng không phải người can đảm mà Ông chính là người của tự do không phải quị lụy trước bất cứ một áp lực nào.
 
Niềm hãnh diện cuối đời : Thủ-tướng bưng bô.
 
Vũ-hoàng-Chương bị bắt vào khám Chí hòa, giam chung cùng một số nhà trí thức khác. Với thân hình gầy yếu sẵn có, phải ăn cơm tù đạm bạc lại thêm thiếu thuốc phiện thì làm sao mà Ông chịu nổi. Có thể nói bao nhiêu ngày trong tù, Ông đau yếu cả bấy nhiêu ngày. Sức lực Ông kiệt quệ dần dần, đã có lúc phải nằm liệt giường. Chính quyền “giải phóng” biết Ông không còn sống nổi bao lâu, nên sau thời gian giam giữ đã quyết định thả Ông về để tránh tiếng Ông bị bức tử trong tù. Về nhà gặp lại vợ con, dĩ nhiên là Ông mừng rỡ, nhưng trong đáy lòng hình như Ông có điều gì thỏa mãn vì tuy nằm bẹp trên giường Ông không có vẻ sầu héo bi lụy của một người gần đất xa trời. Một hôm Ông thố lộ là ở trong tù Ông có phần thích thú vì đã được Thủ-tướng bưng bô vệ sinh cho mình. Mãi sau người nhà Ông mới biết bị giam chung cùng với Ông là Bác sĩ Phan-huy-Quát. Bác sĩ Quát đã có thời làm Thủ-tướng chính phủ dân sự do Cụ Phan-khắc-Sửu là Quốc trưởng. Vì mến thương Vũ-hoàng-Chương và vì lương tâm của người y sĩ, trong thời gian bị giam chung, Bác sĩ Quát đã tận tình chăm sóc cho nhà thi sĩ bất hạnh đau yếu, và không ngần ngại giúp đỡ cả việc vệ sinh hàng ngày. Đó là niềm vui cuối cùng của thi sĩ họ Vũ trước khi Ông lìa đời ngày 6 tháng 9 năm 1976.//

Đọc báo Vẹm ! - Số lần: 387

Đọc báo Vẹm 387


Xin mời quý vị cùng theo dõi tại đây: Đọc báo Vẹm ‘online’ : http://docbaovem.net/  


Thứ Tư, 27 tháng 8, 2014

bộ mặt thật CS trong con người Phan Lạc Tuyên (!)

Tình Yêu-Tình Cha Con - Đạo Đức Của Người Cộng Sản Phan Lạc Tuyên

Mà, những chuyện có thật thì các nhân vật của nó cũng có thật, tránh sao cho khỏi đụng chạm? Tôi lấy ví dụ, câu chuyện tình yêu của cô gái Kampuchia này, cô ta có thật, nguời cô ta yêu là “ông thầy” Phan Lạc Tuyên cũng có thật.

ĐOÀN DỰ ghi chép


THUA QUÝ BẠN, như quý bạn đã biết, Đoàn Dự tôi thuờng tránh, không thích nói tới bất cứ cái gì có dính dáng tới chính trị. Bởi vì, ở truờng hợp tôi rất khó, hễ nói sơ xuất, bên ấy không bằng lòng cũng chết, bên này không bằng lòng cũng chết, chẳng thà đừng nói còn hơn. Thế nhưng tôi lại thích kể với quý bạn những chuyện có thật. Mà, những chuyện có thật thì các nhân vật của nó cũng có thật, tránh sao cho khỏi đụng chạm? Tôi lấy ví dụ, câu chuyện tình yêu của cô gái Kampuchia này, cô ta có thật, nguời cô ta yêu là “ông thầy” Phan Lạc Tuyên cũng có thật.

Muốn nói thật về Phan Lạc Tuyên rất khó, dễ bị chuyện này chuyện khác như chơi. Tôi đ
ã định lờ đi, nói sơ sơ thôi. Nhưng đã kể chuyện thì phải có đầu có cuối. Thôi thì tôi…uống thuốc liều, cứ kể thật rõ về ông Phan Lạc Tuyên với mối tình của cô gái Kampuchia Trinh Mây rồi ai muốn nghĩ sao thì nghĩ, nếu tôi trình bầy có điều gì khiến bên này hay bên ấy không bằng lòng, xin hãy thông cảm cho tôi là được. Bây giờ tôi xin bắt đầu…                                                                              
Thân thế Phan Lạc Tuyên

Phan Lạc Tuyên



Phan Lạc Tuyên sinh năm 1928, là hậu duệ đới thứ 13 của họ Phan cự phách ở làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây. Năm 1951, đang học dở dang trường Luật tại Hà Nội, Phan Lạc Tuyên được gọi vào danh sách đào tạo Sĩ quan trừ bị khoá 1 của Quân đội Quốc gia Việt Nam (lúc này đang chiến tranh Việt-Pháp, QGVN dưới quyền Pháp và Quốc trưởng Bảo Đại), chung khoá với một loạt những vị sau này sẽ là các tướng lãnh tên tuổi của quân đội VNCH, như Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Đức Thắng, Bùi Đinh Đạm, Nguyễn Bảo Trị, Chung Tấn Cang, Lê Nguyên Khang…vv.

Tới đầu năm 1960, do BS Trần Kim Tuyến giới thiệu, Phan Lạc Tuyên được Tổng thống Ngô Đình Diệm cho mời vào trong dinh với ý định “coi mặt” để cử giữ chức Tiểu khu trướng kiêm Tỉnh trưởng tỉnh Bình Dương chỉ mới có nguời tạm quyền. Nhiều người nói rằng do thấy Phan Lạc Tuyên mắt lé (sự thực là chỉ hơi lưỡng nhãn bất đồng thôi chứ không đến nỗi lé), ông Diệm ​ ​
cho rằng nguời mắt lé tính không trung thực nên đổi ý. Nhưng cũng có người nói chính Phan Lạc Tuyên từ chối chức vụ tỉnh trưởng do ghét chế độ Ngô Đình Diệm. Thay vào đó, ông Diệm chỉ định Tuyên làm Chỉ huy phó Liên đoàn Biệt động quân, một binh chúng vừa mới thành lập, con cưng của chế độ, dưới quyền của Thiếu tá Chi huy trưởng Lữ Đinh Sơn. Doanh trại của Liên đoàn đóng tại Sa Mát gần biên giới Campuchia, thuộc tỉnh Tây Ninh.

Vào lúc 0 giờ ngày 11-11-1960, tại doanh trại ở biên giới, Đại úy Chỉ huy phó Phan Lạc Tuyên ra lệnh cho thuộc hạ bắt giữ Thiếu tá Chỉ huy trưởng Lữ Đinh Son, giành quyền kiểm soát toàn bộ 12 đại đội của Liên đoàn Biệt động quân, chỉ để 2 đại đội ở lại tiếp tục làm nhiệm vụ canh phòng, còn Phan Lạc Tuyên thì chỉ huy 10 đại đội và 12 khẩu đại bác từ Tây Ninh kéo về Sài Gòn, cùng Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Chỉ huy truởng Lữ đoàn Nhảy dù, và Trung tá Vương Văn Đông, giảng viên Truờng Đại học Quân sự, tiến hành đảo chính TT Ngô Đinh Diệm, một vị Tổng thống cũng có phần nào giống như các ông, rất nặng tinh thần quốc gia dân tộc.

Tuy cùng mưu đồ đại sự nhưng ba người khởi xướng lại không đồng nhất với nhau cả về mục đích lẫn phương pháp.

1- Nguyễn Chánh Thi thì quá lỗ mãng, võ biền, chỉ muốn gây binh biến để loại bỏ một số bộ phận mà ông ta ghét cay ghét ​ ​
đắng trong chính phủ và quân đội. Ý thức chính trị của Nguyễn Chánh Thi rất mù mờ.

2- Vương Văn Đông thì ngược lại, tuy không có lấy một người lính thuộc quyền làm thực lực nhưng lại quá nhiều mưu mô và tham vọng chính trị. Ông ta đang thậm thụt liên lạc với một số những tay Phòng Nhì Pháp cũ như Quách Sến, Nhữ Đinh Lan lưu vong tại Campuchia (lúc ấy thuờng gọi là Căm-Bốt, hoặc Cao Miên theo tiếng Việt). Đầu óc thân Pháp của Vương Văn Đông vẫn còn nặng nề, mơ tưởng tái lập ảnh hưởng chính trị của Pháp trên đất miền Nam.

3-Phan Lạc Tuyên thì thừa nhiệt tình, thực tâm muốn chấm dứt quyền lực của một chế độ mà ông ta phật ý, song cũng chưa hình dung ra được sẽ thay chế độ đó bằng cái gì.

Cả 3 vị lãnh đạo cuộc đảo chính đều không có chút ý thức nào về việc “chăm dân, trị quốc” nếu lật đổ được anh em ông Diệm .

Lẽ ra cuộc binh biến chỉ nổ ra sau 0 giờ ngày 12-11-1960, chậm hơn so với thực tế một ngày. Nhưng vì không có quân trong tay, sợ mất vai trò lãnh đạo sau khi đảo chánh thành công, do đó Vương Văn Đông cố tình phát động binh biến truớc 24 giờ, sau đó ​ ​
mới báo cho Nguyễn Chánh Thi biết để đặt kẻ đồng mưu trước việc đã rồi. Mục đích của Đông là tạo cơ hội để giành quyền bầy binh khiển tướng, tự nâng cao vai trò của mình.

Vì bị động nên các đơn vị tham gia đảo chánh thi hành không đồng bộ. Mãi đến trưa ngày 11-11, mục tiêu quan trọng nhất là Dinh Độc Lập (dinh cũ, chưa bị hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử bỏ bom năm 1962) vẫn chưa bị chiếm. Bên trong hàng rào Dinh Độc Lập, sức kháng cự của Lữ đoàn liên minh phòng vệ tổng thống phủ vẫn còn rất mạnh.


Từ sân Bộ Tổng tham mưu, 12 khẩu đại bác 105 ly của Phan Lạc Tuyên đã nhắm hướng Dinh Độc Lập, lấy sẵn tọa độ, sẵn sàng trút sấm sét giã nát lực lượng phòng thủ trong Dinh nếu Đại tá Nguyễn Chánh Thi ra lệnh. Nhưng miệng lưỡi khôn ngoan của Trung tá Đông đã thuyết phục được Thi bãi bỏ lệnh xạ kích, vì: “Tổng thống đã xin điều đình, ta phải tin”. Thay vào đó, hai ông Thi và Đông quay sang chuẩn bị họp báo, ra tuyên ngôn…cùng các “chính khách” Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu, Luật sư Hoàng Cơ Thuỵ, Linh mục Hồ Văn Vui... nên bỏ lỡ cơ hội.

Bằng hệ thống điện đài cực mạnh trong Dinh Độc Lập, Tổng thống Ngô Đình Diệm có thời giờ liên lạc, gọi các tuớng lãnh trung thành 
đem quân về tiếp cứu. Trong khi các ông Thi, Đông, Tuyên tin tưởng vào lời hứa đầu hàng của Tổng thống, vẫn loay hoay thương thuyết cả ngày trời với ông Võ Văn Hải, bí thư riêng của ông Diệm về cách thức chuyển giao quyền lực tại Bộ Tổng tham mưu, hai ông Diệm, Nhu sẽ lưu vong ra sao..vv.., thì khuya ngày 11-11, ba bề bốn bên, quân “cứu giá” đã ùn ùn kéo về Sài Gòn.

1- Sư đoàn 7 của Tướng Huỳnh Văn Cao từ Biên Hoà vào.

2- Sư đoàn 13 của Đại tá Trần Thiện Khiêm từ Mỹ Tho lên.

3- Sư đoàn 5 của Đại tá Nguyễn Văn Thiệu từ Bảo Lộc xuống...

Trong nội đô, một loạt các đơn vị khác như Lữ đoàn Thiết giáp của tướng Lê Nguyên Khang từ Gò Vấp, lực luợng hải quân của đề đốc Chung Tấn Cang ở Bến Bạch Đằng cũng đang rục rịch tấn công vào cạnh sườn quân đảo chính.

Hành sự như một tay tập sự, ông Nguyễn Chánh Thi phạm thêm một sai lầm khác là không cho quân đảo chánh chiếm Đai Phát thanh, cắt dây điện thoại. Đúng 1 giờ trưa ngày 12-11, đài công khai phát lời hiệu triệu của Tổng thống Diệm, tiếp tục kêu gọi các đơn vị đưa quân về Sài Gòn dẹp loạn.

Biết thất bại đã gần kề, hai ông Nguyễn Chánh Thi và Vương Văn 
Đông cho bắt Trung tướng Tư lệnh Biệt khu Thủ đô Thái Quang Hoàng, ném lên xe Jeep, phóng ra phi trường Tân Sơn Nhất, đẩy lên một chiếc máy bay DC4, ép buộc Đại uý Phan Phụng Tiên phải cầm lái rồi bay thẳng sang Phnôm Pênh xin tị nạn chính trị.

Về phần Đại uý Phan Lạc Tuyên, mới đầu Tuyên định liều mạng 
đánh một trận cuối cùng. Nhưng một số sĩ quan thuộc quyền xúm vào can ngăn khiến ông thay đổi ý định. Cùng với Trung úy Ân, Hạ si Thúc và một người lính, vị đại uý đảo chánh bất thành này dùng xe Jeep chạy về Tây Ninh.

Tại cửa khẩu Sa Mát phía bên Việt Nam, Phan Lạc Tuyên đưa thẻ Chỉ huy phó Biệt 
Động Quân, đánh lừa cho những người lính gác sơ hở, giúp Hạ sĩ Thúc có cơ hội vọt lên, tung gãy chiếc barrière chắn đường, phóng chiếc xe Jeep trên đó có 4 tay đào tẩu chạy thẳng sang đất Căm-Bốt, bắt đầu cuộc sống lưu vong.


Sau khi thẩm vấn, nhà chức trách Cao Miên đưa nhóm của Phan Lạc Tuyên về trại tị nạn Mônivông ở Phnôm Pênh. Hai ông Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông đào tẩu bằng máy bay đã tới trước, 
cũng ở trại này. Tuy nhiên, những mâu thuẫn sâu sắc về quan điểm và những bất mãn, đổ tội lẫn nhau khiến ba kẻ lãnh đạo đảo chánh tách riêng mỗi nguời một nơi, không thèm nhìn mặt nhau. Mỗi người trong số họ lại tiếp tục theo đuổi ý định riêng, có quan điểm chính trị riêng.

Nắm được tư tuởng lung lay, “lập trường không phải lập truờng” của Phan Lạc Tuyên và các đàn em này đã là “cựu” Biệt Động quân, CS bèn liên lạc, lôi kéo. Một cuộc gặp gỡ bí mật đã diễn ra tại toà soạn báo Trung Lập, một tờ báo do “Mặt trận Giải phóng miền Nam” thành lập, tại số 380 đường Mônivông. Ở đây, Phan Lạc Tuyên được các ông Trần Văn Kiêm (chủ bút), Hai Lý (đại diện ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam) và Nguyễn Thế Thịnh (công nhân in) tiếp 
đón. Sau buổi tiếp xúc, Phan Lạc Tuyên đã nhận lời giữ liên lạc với ban Binh vận Trung ương Cục.
Ít lâu sau, phía Campuchia tách những nguời tị nạn thành 3 nhóm, cho đi 3 trại khác nhau tuỳ theo tư tưởng chính trị của họ. Nhóm của Phan Lạc Tuyên và các đàn em cựu Biệt động quân ở trong trại Tung Miên chay, nguyên trước đây là một chuồng ngựa cũ của Pháp. Thông qua Sa Biêng, một lính gác người Miên gốc Việt, sách báo, tài liệu của CS đã được chuyển vào trong trại cho nhóm của Tuyên. Từ sự thuyết phục của Phan Lạc Tuyên, các Trung úy Ân, Trung uý Hồ Công Minh, Thiếu úy Thái Trần Trọng Nghiã, Hạ sĩ Thúc và một số người khác đã đồng lòng cùng Tuyên theo về với “Mặt trận Giải phóng”.

Tháng 3 - 1962, tất cả mọi người tị nạn chính trị đều được phép ra khỏi trại, tự do kiếm việc làm trong thành phố Phnôm Pênh, chỉ mỗi tháng phải đến trình diện nhà chức trách địa phương một lần. Nhờ vốn tiếng Pháp và khả năng viết báo, Phan Lạc Tuyên xin được một chân trong ban biên tập tờ La Dépêche Du Cambodge (Điện Báo Campuchia) do Châu Seng, Bộ trưởng Thông tin sáng lập.

Biết tính nết ngang ngược, coi trời bằng vung của Phan Lạc Tuyên, ông Bộ trưởng kiêm Chủ bút luôn luôn nhắc nhở: “Viết gì cũng được nhưng đừng có quá khích. Ông Diệm cho mật vụ qua ném lựu đạn vô toà soạn thì chết đấy”.

Phan Lạc Tuyên nguyên là một nhà thơ (bài Tình Quê Hương do Nhạc sĩ Đan Thọ phổ nhạc từ năm 1953 hết sức nổi tiếng, ai cũng thuộc lòng vài câu:”Anh về qua xóm nhỏ. Em chờ dưới bóng dừa. Nắng chiều lên mái tóc. Tình quê hương đơn sơ…”).

Nhờ sự giới thiệu của ông Châu Seng, ít lâu sau, Phan tạc Tuyên vừa làm báo vừa 
được mời dạy môn Văn chương Pháp tại Lycée Anna Kout do Hoàng thân Virya, cậu ruột của ông hoàng Shihanouk làm Hiệu trưởng. Từ đó, một nữ sinh học trò của Tuyên, thuộc một gia đinh quý phái, có cảm tình với “thầy”…
Cô gái Campuchia

Kathy Trinh Mây

 

Tên nàng là Katherin Trinh Mây, thường gọi là Kathy, nữ sinh năm cuối trung học. Mẹ gốc Hoa lai Việt. Bố là người Campuchia hiện đang giữ chức Giám đốc Sở Y tế Thủ đô Phnôm Pênh. Kathy thừa hưởng được cả nét duyên dáng của mẹ lẫn sự thông minh, học thức của bố. Ngay chính bản thân cô cũng thành thạo 5 ngôn ngữ: Việt, Anh, Hoa, Pháp, Miên. Ngoài ra, Kathy lại là hoa khôi của trường Anna Kout.

Xuất thân quý phái, được cưng chiều và ưa mơ mộng, Kathy tỏ ra 
đặc biệt quan tâm đến “người hùng sa cơ lỡ bước” Việt Nam của mình. “Thầy” giỏi tiếng Pháp, lại là nhà thơ, những giờ dạy văn chương lãng mạn Pháp đã gieo vào lòng cô gái thông minh không thua gì thầy những giấc mơ bay bổng.

Thật ra, lúc ấy tuy mới 33 tuổi – cái tuổi các cô gái rất thích – nhưng Phan Lạc Tuyên 
đã có một người vợ chính thức cưới từ năm 1953 ở ngoài Bắc và có 3 con gái với bà này (Phuong Lan, Bạch Tuyết, Hoàng Yến). Sau khi vào Nam, là trung uý QĐVNCH, ông lấy thêm một bà khác tên Bùi Thị Nga, giáo viên tiểu học và có với bà này 2 con, 1 trai 1 gái (Phan Quốc Hung, Phan Thị Hoài Hà), tất cả đều sống ở khu Ông Tạ. (Trước năm 75, bà Bùi Thị Nga bị bệnh tâm thần, được đưa vào Dưỡng trí viện Biên Hoà, nay đã qua đời). Kathy không cần biết đến những chuyện đó, cô không cần hỏi ông “thầy”đã có vợ con hay chưa.

“Thầy” ở một mình trong căn gác trọ. Thỉnh thoảng Kathy lại mượn cớ đến nhờ thầy giảng giùm một đoạn văn Pháp, giải thích giúp một vài thành ngữ khó, sau đó cô giúp thầy thu dọn nhà cửa, giặt ủi quần áo, những công việc mà ở nhà chẳng bao giờ cô phải mó tay vào.
Còn khi đi học, Kathy thường làm như tình cờ, lái chiếc xe hơi riêng 
của mình đi qua nhà thầy để “thầy” đi nhờ. Mỗi lần như thế cô thường nhường tay lái cho thầy còn mình thì ngồi bên cạnh. Những ngày nghỉ lễ cô hay mời thầy đến nhà mình ở số 17 ​ ​
đuờng Yukanthor, ở chơi ăn cơm, chuyện trò với cha mẹ.

Ông Giám đốc Sở Y tế Phnôm Pênh cha của Kathy vốn là nguời có quốc tịch Pháp 
nên ghét ông Diệm. Phan Lạc Tuyên chống ông Diệm, điều này khiến ông càng quý mến “Mr. Le professeur Tuyên” hơn.
Kathy đã được Tuyên tâm sự về việc theo CS, cô cho biết cô sẵn sàng từ bỏ đời sống nhung lụa để đi theo “thầy” đến bất cứ nơi nào, kể cả sang Việt Nam mà cô chỉ nghe nói chứ chưa hề biết.

Tháng 7 năm 1963, Kathy đã thi đậu vào Đại học Y khoa Phnôm Pênh, nhóm cựu Biệt
​ ​động quân Tuyên, Ân, Thúc, Minh… nhận được chỉ thị của Trung ương Cục ra lệnh rời đất Campuchia để về miền Nam nhận công tác do “Mặt Trận” giao phó.

Chuyến đi phải tuyệt đối giữ bí mật, không được tiết lộ ngay cả với những người thân thiết nhất, bởi vì lúc ấy chính phủ Nam Vang 
đang nghiêm cấm các hoạt động chính trị, hễ lộ ra là sẽ bị kẹt lại. Phan Lạc Tuyên mới theo về với “cách mạng”, muốn lập công nên càng ra sức giữ gìn hơn. Ông lặng lẽ dứt áo ra đi, không tiết lộ cho Kathy​ được biết. Kỷ niệm duy nhất mà ông đem theo là tấm hình Kathy chụp nghiêng, gương mặt xinh xắn, tươi cười (xin xem hình).

Sang tới căn cứ ở Tây Ninh, mọi người được phân tán ra, sau đó 
Phan Lạc Tuyên nhận được chỉ thị theo giao liên vượt Trường Sơn, ra Bắc, tham gia các hoạt động binh vận miền Nam, hô hào giải phóng.

Năm 1971, Ba Lan cho học bổng, không mấy người đi vì họ ít biết tiếng Pháp hoặc tiếng Ba Lan (Ba Lan không nói tiếng Nga), Phan Lạc Tuyên bèn xin đi.

Sau 3 năm ở Ba Lan và đã trở về Hà Nội được hơn 1 năm, tới ngày “giải phóng” 30-4-1975, Phan Lạc Tuyên tự động vào Sài Gòn rất sớm, không có phân phối công tác của cơ quan nào cả và ở luôn trong Nam, phất phơ bằng nghề dạy Phật học tại các chùa, không có cơ quan công tác chính thức. (Phan Lạc Tuyên không được vào đảng).

Trong thời gian ở trong Nam, Phan Lạc Tuyên có biết đôi chút tin tức về Kath
y​, người con gái Campuchia thông minh và giàu tình cảm đó: Sau khi Tuyên đi, Kaththương nhớ, chờ đợi. Tuyên vẫn bặt tin. Đợi chờ không nổi, cô được cha mẹ cho sang Pháp du học, tốt nghiệp bác si Y khoa tại Pháp rồi lấy chồng nguời Pháp gốc Campuchia cũng là bác sĩ. Tin tức đến với Tuyên chỉ có bấy nhiêu, không hơn.

Sự thật, đối với Phan Lạc Tuyên, Kath
chỉ như một kỷ niệm đẹp vậy thôi. Bởi vì như trên đã nói, trước khi di cư vào Nam Tuyên đã có một người vợ và có với bà này 3 con. Rồi trong khi còn là sĩ quan QĐVNCH, tuy có vợ đấy nhưng Tuyên lấy thêm bà Bùi Thị Nga và có với bà này 2 con. Ra ngoài Bắc, Tuyên lấy bà Đỗ Thị Hồng Phấn, cán bộ y tế (y tá trong cơ quan nhà nuớc), có thêm 2 con với bà này, ấy là chưa kể các mối tình “lặt vặt” khác.

Ta hãy nghe lời bà Hồng Phấn nói với Tuyên khi, sau 30-4-75, Tuyên muốn bà đi với mình vào trong Nam: “Tôi khổ quá ông Tuyên ơi! Ông là cái thứ tiểu tư sản, lại ngụy quân cũ! Đảng muốn tôi lấy ông để cảm hoá ông. Nào ngờ ông vẫn tính dê như quỷ, đi 
đến đâu là dính đàn bà đến đấy. Mà bây giờ lại có 2 vợ trong ấy rồi, cả một đống con. Tôi theo ông vào Nam tôi xấu hổ với bạn bè tôi lắm. Bạn tôi đứa nào lấy chồng tập kết ra Bắc bây giờ gia đình trong Nam viết thư ra cũng nhà cao cửa rộng chờ đón! Thôi tôi bỏ ông, tôi ở lại Hà Nội!”. (Theo lời kể của bà Thu Khanh, cô giáo, vợ của Cố Thi sĩ Đại uý QLVNCH Phan Lạc Giang Đông em ruột Phan Lạc Tuyên, đi cải tạo 13 năm rưỡi, sang Mỹ năm 1994 theo diện HO, mất năm 2001 tại Mỹ). Như vậy chúng ta thấy tình yêu của Phan Lạc Tuyên đối với cô gái Campuchia chưa chắc đã phải là một mối tình tha thiết như cô đối với ông.

Năm 1980, sau khi đã định cư lâu dài ở phường 18, quận Tân Bình, Sài Gòn, một hôm Phan Lạc Tuyên tình cờ gặp một phụ nữ người Hoa cùng ở cùng phường, cho biết bà là bà con với bên nhà chồng của người chị cả của cô gái Campuchia tên Trinh Mây. Người chị cả này hiện ở Gò Vấp, sắp đi với chồng sang Pháp. Phan Lạc Tuyên giật mình ngạc nhiên, bèn xin địa chỉ rồi lên Gò Vấp tìm kiếm. Cuối cùng Tuyên đã gặp 
được bà chị cả đó. Cũng may, chỉ hai bữa nữa bà sẽ lên máy bay sang Pháp.

Người chị tiếp đải Tuyên rất tử tế. Bà vừa chậm nuớc mắt vừa sụt sùi khóc và kể cho Tuyên nghe bằng thứ tiếng ngòng ngọng của nguời Campuchia nói tiếng Việt nhưng rất rành rẽ nghe tiếng Việt…

Sau khi Tuyên đi, Kath
đến căn gác trọ. Cô thấy vắng tanh và không hiểu tại sao anh ra đi như vậy mà không một lời từ giã. Nhưng cô không trách anh vì đoán phải có lý do nào đó quan trọng nên anh mới giữ bí mật đến thế. Dù đau đớn, cô vẫn tin sẽ có ngày anh trở lại. Cô khóc một mình rồi nhặt nhạnh các giấy tờ, khung ảnh mà anh để lại, đem về cất giữ, nâng niu như những kỷ vật.

Cô học hết năm thứ 3 Đại học Y khoa Phnôm Pênh thì được cha mẹ cho sang Pháp du học, tiếp tục ngành Y. Đến tháng 2 năm 1965, báo chí đảng Cộng sản Pháp đăng tin Hội nghị Nhân dân Đông Dương sẽ đuợc tổ chức tại thủ đô Phnôm Pênh của Campuchia. Cô mừng như bắt được vàng khi coi danh sách đoàn đại biểu MTGPMN tham dự hội nghị có tên Phan Lạc Tuyên. Ngay lập tức cô gác việc học sang một bên, mua vé máy bay bay về Phnôm Pênh với hy vọng gặp được ông “thầy” mà cô yêu thương tha thiết.

Suốt mấy hôm liền, sáng nào Kathy cũng ôm một bó hoa tươi đứng chờ bên lề đường trước cổng của nơi diễn ra hội nghị. Nhưng nguyên tắc của các đoàn đại biểu hết sức nghiêm ngặt. Mỗi sáng, xe đến đón tận cửa khách sạn nơi các đại biểu ở. Đưa đến hội nghị xe cũng đậu sát bậc thềm trước phòng tiền sảnh. Khi trả các đại biểu về khách sạn cũng vậy, hết sức kỷ luật. Ngoài ra, các đại biểu – nhất là đoàn Việt Nam - tuyệt 
đối không được quyền có bất cứ một cuộc tiếp xúc riêng tư nào khác. Do đó, Kathy không gặp được Phan Lạc Tuyên, cô chán nản trở lại Pháp.

Sau khi đã tốt nghiệp bác sĩ y khoa, tuổi cũng đã lớn, không thể chờ 
đợi được nữa, Kathy lập gia đình với một bạn đồng nghiệp cùng quốc tịch Pháp gốc Campuchia nhưng đã ra trường trước nàng nhiều năm và đã đậu xong tiến sĩ y khoa. Nhân cha của Kathlàm giám đốc Sở Y tế Phnôm Pênh nay đà hưu trí, hai người bàn nhau trở về Campuchia, làm bác sĩ giải phẫu trong Bệnh viện Pnôm Pênh. Họ sinh đuợc một con gái.

Tháng 4-1975, Khmer Đỏ tiến vào “giải phóng” Phnôm Pênh. Dân chúng vui mừng hớn hở đem biểu ngữ, cờ quạt ra đón. Nhưng chỉ 3 hôm sau, Pôn Pốt theo lệnh của Trung Quốc, đuổi hết dân chúng ra khỏi thành phố và bắt đầu tiêu diệt. Họ giết dân bằng súng ống, xẻng cuốc hay bất cứ cái gì mà họ có thể đập vỡ sọ được. Gia đinh Kath
y​ Trinh Mây đều chết hết trong nạn diệt chủng tàn bạo và ngu xuẩn đó, kể cả đứa con gái mới lên 2 tuổi của vợ chồng Trinh Mây. Chỉ riêng bà chị cả – tức người ​ ​
đang nói chuyện với Phan Lạc Tuyên – là sống sót. Bà lấy chồng người Hoa, gia đình nhà chồng làm nghề buôn bán ở bên Việt Nam, lúc ấy bà đang ở Việt Nam nên thoát chết. Bà không ngờ có dịp được kể lại mọi chuyện với Phan Lạc Tuyên, người mà bà biết là em gái bà đã yêu thương tha thiết. Lúc ấy, năm 1980, Tuyên 52 tuổi.

Bà Thu Khanh kể về Phan Lạc Tuyên

Cũng như Phan Lạc Giang Đông (tên thật, không phải bút hiệu), Phan Lạc Tuyên là một nhà thơ. Tâm hồn các nhà thơ thì thường phóng khoáng, rất đẹp. Nhưng riêng Phan Lạc Tuyên, không phóng khoáng, không đẹp. Chúng ta hãy nghe bà Thu Khanh, vợ của Phan Lạc Giang Đông, tức em dâu Phan Lạc Tuyên, nhà ở khu Ông Tạ, hiện nay đang ở bên Mỹ, thuật lại trên Internet những ngày đầu trở về của anh ruột chồng:

“Vào tháng 8 năm 1975 - nghiã là sau 30/4/75 ít tháng thì nguời anh chồng tôi là Phan Lạc Tuyên trở về Sài Gòn. Tuyên mặc quần áo bộ đội, đi dép râu, đội nón cối, vai đeo ba lô, tay dắt đứa con trai nhỏ 6 tuổi tên là Phan Đỗ Trí (con của vợ lấy ở ngoài Bắc ).

Hôm đó bố chồng tôi đã được báo trước nên cụ ngồi ở nhà cả ngày để 
chờ. Quả thật làm cha mẹ ai mà không mừng rỡ khi con cái xa cách bao nhiêu năm nay trở về, nên tâm sự cha chồng tôi cũng thế. Cụ rưng rưng lệ, ôm lấy PL Tuyên và ôm đứa cháu nội nay mới 6 tuổi.

Kế đó là chú Tùng, người chú rể, nhà ở đối diện với cổng nhà tôi ở khu Ông Tạ. Chú nghe thấy tiếng reo mừng nên chạy qua, ôm lấy PL Tuyên mà hôn thắm thiết vào hai bên má. Tôi rất ngạc nhiên vì chú hôn đúng mốt xã hội chủ nghia chiếu trên ti vi gần
​ ​
đây. Hiện chú đang được làm tổ trưởng dân phố.

Sau khi hàn huyên và dẫn Tuyên đi thăm Bà trẻ (vợ kế của bố chồng tôi) ở Vuờn Soài, có cửa tiệm buôn bán vàng bạc, và thăm một ông chú cũng ở Ông Tạ, nhà cao cửa rộng, cũng có cửa tiệm buôn bán vàng bạc. Ăn cơm xong, bố chồng tôi bảo Phan Lạc Tuyên: “Đây là khu Công giáo, anh ở không được đâu, người ta ghét anh lắm. Anh 
đi với bố sang nhà chú Tư, bên ấy rộng rãi, sang trọng, có tiền có bạc, có người hầu hạ, bố con anh ăn uống đầy đủ và an ninh hơn”.

Phan Lạc Tuyên suy nghĩ một lát rồi đứng lên đeo ba lô và dẫn con đi theo ông cụ. 
Tới khoảng 10 giờ đêm bố chồng tôi mới trở về nhà, nét mặt cụ rất tươi vui….
Hơn một tháng tôi không gặp Phan Lạc Tuyên trở lại. Bỗng một hôm, sáng sớm Chủ nhật, tôi 
được con gái của Phan Lạc Tuyên đua mẩu giấy, trong đó Phan Lạc Tuyên ghi: “Thím Giang, tôi mời thím đúng 9 giờ sáng nay phải đến nhà ông Tú Tài để có cuộc họp quan trọng. Thím phải đúng giờ và không được vắng mặt”.

Tôi rất ngạc nhiên nhưng cũng đến đúng giờ. Khi bước vào cửa, tôi 
được chỉ lên trên lầu.

Cái lầu 3 của nhà ông Tú Tài (em ruột cụ Phan Vọng Húc, bố chồng tôi), có một chiếc bàn dài, kê ghế hai bên. Mọi người đã đông đủ, một bên là cụ Phan Vọng Húc, Bà trẻ, 
đến hai cô con gái Bà trẻ. Một bên là các con Phan Lạc Tuyên, gồm: Phan Thị Phuong Lan , Phan Thị Bạch Tuyết , Phan Thị Hoài Hà, Phan Quốc Hung. Có một chỗ trống ở đầu ghế dài này là chỗ giành cho tôi ngồi.

Hai đầu bàn thì chỉ có một cái ghế dựa trống. Còn Phan Lạc Tuyên 
đứng. Tôi buớc vào chỗ xong, quả thật tôi nín thở - Không hiểu điều gì sẽ xảy ra! Chắc chắn không phải là một cuộc họp mặt vui vẻ!

Dăm bảy phút trôi qua mà sao nghe lâu và nặng nề quá! Phút chờ 
đợi đã tới.
Ông Tú Tài đã từ lầu dưới đi lên, bước vào! Ông là chú của chồng tôi nên tôi chào: “Thưa chú!”, còn thì không ai chào cả!
Phan Lạc Tuyên tay kéo ghế dựa, chỉ ông Tu Tài: “Mời ông ngồi  
đây!” rồi lên tiếng ngay và nói liên tu:

“Thưa ông Tu Tài! Tôi xin lỗi, ông và tôi trong xã hội mới không ngồi chung một chiếu. Ông chiếu khác, tôi chiếu khác. Do đó hôm nay, sau một tháng mười ngày tôi và hai con tôi ăn ở tại nhà ông là để 
xác định rõ ràng chúng ta không thể ngồi cùng một chiếu! Vở kịch của chúng ta đến đây đã chấm dứt. Nay, truớc sự hiện diện của bố tôi: cụ Phan Vọng Húc, mẹ kế tôi và thím Giang Đông, tôi tuyên bố trả lại tiền ăn một tháng mười ngày - đúng theo tiêu chuẩn xã hội chủ nghia - là 15 kí gạo.Và tôi dọn ra khỏi nhà ông.​ ​
Bạch Tuyết! Đem gạo ra đây trả cho ông Tu Tài! .

Ông Tu nhìn túi gạo để ngay truớc mặt rồi nói:

“Thưa bác Sếp (bố chồng tôi trước 1954 làm trưởng phòng Địa Chánh nên mọi người gọi là cụ Sếp) và thưa anh Tuyên, chú nghĩ anh về là chú mừng và nhất là anh lại đậu tiến sĩ về khoa khảo cổ, nên khi chú nghe tin bác Sếp và anh nói muốn tạm thời ở nhà chú thì chú mừng rỡ nhận lời ngay. Chú cũng có ý muốn gần anh để lúc rảnh sẽ trao 
đổi với anh đôi điều về sách vở, thơ phú. Nào ngờ vì lý do gì, anh giận chú mà bỏ đi  đột ngột và trả chú 15 kí gạo thế này. Quả thật chú cũng chỉ thuê riêng một người để hầu hạ anh và hai cháu thôi chứ chú cũng biết trong xã hội mới đâu có quyền thuê người ở để hầu hạ mình như truớc.
Cách mạng về thì chú cũng chấp hành ngay mọi việc mà! Nay giá anh cho chú một 
cục đá khảo cổ để chú làm kỷ niệm chứ gạo thì tuy nhà ai cũng khó khăn nhưng chú còn lo được, còn cái tình chú cháu khó kiếm lại được! Chú hiểu thân phận chú không cùng một chiếu với anh thì dù nhà nước muốn xử thế nào chú cũng chấp nhận chứ không dám nhờ anh che chở. Kể cả các em đi cải tạo cũng phó mặc cho số trời! Chưa bao giờ chú nói nhờ vả hoặc xin xỏ anh một điều gì cả”.

Ông Tu Tài nói xong, Phan Lạc Tuyên tuyên bố: “Giải tán!”. - Tất cả mọi người ra về.
Đấy là đoạn mở màn, bây giờ chúng ta xem một đoạn khác của bà Thu Khanh:

“Sau ngày đánh tư sản thì tới ngày cho kê khai nhà cửa, ai diện nào bị đi kinh tế mới, ai được hợp thức hoá nhà và cho chuyển hộ khẩu...vv.

Tôi ở chung hộ khẩu với gia đinh nhà chồng từ khi lấy Giang Đông. Nay Tuyên muốn tôi phải tách hộ khẩu vì không muốn có trong hộ khẩu vợ con của một thằng em là sĩ quan ngụy đang đi cải tạo.

Tuyên mời bố chồng tôi ra làm việc. Đầu tiên, cụ được lệnh mở cái rương kê duới gầm bàn thờ. Tuyên lục lọi trong 
đó, bắt ​ ​
được lá đơn cụ viết gửi cho cảnh sát quận Tân Bình với nội dung nhờ cảnh sát đưa chị Bùi Thị Nga vào Duỡng trí viện Biên Hoà vì chị bị tâm thần, cứ gọi tên các vị lãnh đạo quốc gia ra mà chửi.

Đọc đơn đó Tuyên đã 
nổi sùng nhưng vẫn lục tiếp và lôi ra tấm hình cụ Húc chụp chung với hai nguời Mỹ. Hai người này vốn là cố vấn Văn hóa, xin chụp chung vì cụ là nhà nghiên cứu, có tên trong ban Tu Thu và Dịch thuật, đã được Giải thưởng Văn học - Dịch thuật với cuốn sách cụ dịch có tên “Phan Trần trá hôn”. Và Tuyên tiếp tục lôi ra một cái hộp đựng huy chương với lá cờ Vàng của VNCH, hình của Phó tổng thống Trần Văn Hương đang bắt tay và trao giải thưởng. Rồi hết, không còn gì khác.

Tuyên mặt đỏ phừng phừng, chỉ vào mặt bố chồng tôi, la: 
“Ông là thằng phản động! Ông không xứng đáng vơi tôi một tí nào cả! Trong khi tôi đi kháng chiến thì ông ở nhà làm đơn cho cảnh sát bỏ tù vợ tôi - bỏ tù vợ một thằng Cộng sản! Đây là lá đơn chính chữ ông viết!”.
Cụ Húc phân bua :

“Vợ anh điên thật nhưng bắt vào trại tâm thần thì ở nhà không ai 
đưa đi được. Vì người điên khoẻ lắm, thầy phải làm đơn để cảnh sát họ đưa đi. Đi chữa bệnh chứ có đi tù đâu!”.

Tuyên giơ tấm hình:

“Cái này ông còn chối cãi được không? Ông liên lạc với CIA, chụp chung hình với CIA!”.

Cụ Húc giải thích:

“Thầy đâu có làm gì với CIA! Họ là cơ quan Văn hoá”.

“Hừ! Văn Hoá ! Ngành nào cũng là CIA hết! Này thì giải thưởng Văn Chương! Này thì huy chương! Này cờ quạt…”.

Tuyên ném các thứ xuống đất, lấy chân đi lên. Ông cụ lại nói gần như khóc:

“Thôi anh à, dù sao thì thầy cũng chịu ơn của chính phủ miền Nam. Anh cho phép thầy nhặt lá cờ lên, thắp một nén nhang rồi thầy giao nhà cửa cho anh. Anh là con cả, trưởng tộc, thờ cúng tổ tiên kế thầy!”.
Cụ Húc lom khom nhặt lá cờ. Tuyên giật ngược lại dí xuống đất:
“Để cho ông thắp nhang thôi!”.
Thắp nhang và vái mấy vái xong, cụ hốt hoảng ra về Cống Bà Xếp, ở với người vợ sau cùng là Bà Tu Cao với đứa con gái nhỏ tên là Hải, cưới sau ngày bà mẹ ruột chồng tôi mất để hầu hạ cụ.
Hai gian nhà cụ Húc được khoá trái lại, giao chìa khoá cho Tuyên. Tuyên đề trước cửa: “Cấm mở! Cấm bọn phản động tụ họp cúng giỗ, 
ăn nhậu!”.

Một tuần sau ông cụ đau. Tôi lên Cống Bà Xếp thăm. Cụ không dậy 
được. Tôi hỏi cụ: “Thầy có làm sổ gia đình không? Con sẽ hợp thức nhà và xin tách hộ khẩu”.
Cụ nói:

Thằng Tuyên nó không còn tính người. Hôm qua nó mời cậu lên và nó sai cô Tổng (em ruột cụ, cô của Giang Đông) nhổ nước miếng và chỉ vào mặt thầy, chửi: “Anh là 
đồ chó!”. Tại nó muốn thầy phải xác nhận phần nhà thầy cho con là của thầy rồi làm giấy tờ cho nó luôn, thầy trả lời thầy không thể làm như thế vì không có nhà con sẽ phải đi kinh tế mới. Lúc Giang Đông về cũng phải đi kinh tế mới theo con. Bởi vậy nên thằng Tuyên tức, bắt cô Tổng nhổ vào mặt và chửi thầy!”.
Tôi nói:
“Cách đây ba bữa anh Tuyên cũng bảo con phải chửi thầy nhưng con không chửi. Con nói con là con nhà có giáo dục, hễ con mà chửi là bố mẹ con sẽ từ con ngay. Hơn nữa con là cô giáo, học trò ở khắp quanh đây, nếu con mất dạy như thế thì phụ huynh sẽ làm đơn đề 
nghị cho con nghỉ việc lập tức. Anh Tuyên bảo nếu vậy thì thằng Giang Đông cứ tiếp tục ở trong trại cải tạo. Ý anh ấy muốn thầy ghét con, không ký tên cho con nhà rồi anh ấy chiếm luôn”.
Ông cụ nói:
“Thôi con cứ về lo sang tên và làm hộ khẩu mới đi. Thầy không cho nó chiếm căn nhà thầy cho con đâu”.
Bà Thu Khanh còn viết nhiều nữa nhưng thôi, bấy nhiêu đủ rồi, tôi không trích thêm.
​ ​
Điều tôi muốn kể với quý bạn là năm 2008, Phan Lạc Tuyên 80 tuổi, ông lấy một cô nghe nói là sinh viên, chưa đầy 30 tuổi. Còn hiện nay, 2010, ông 82 tuổi, đang “tu” trong chùa Diệu Giác ở phường 13 quận Gò Vấp, chỗ đường No Trang Long giáp với  ​đường Phan Văn Trị.
Quý bạn hỏi một nguời 80 tuổi, có tài gì mà lấy được một cô chưa tới 30 tuổi? Được quá đi ấy chứ! Phan Lạc Tuyên có nhiều nhà, ông ta bán đi, có vài trăm cây vàng trong túi thì muốn lấy người bao nhiêu tuổi mà chả được! Chỉ có điều, nếu bị cô ta móc hết tiền thì…đi ở chùa!
Nguyễn Mộng Khôi chuyển