Sự tích chiếc xe trâu của Phùng Quán
Nguyễn Quang Lập
Những năm tám mươi mình ở quê, mỗi lần ra Hà Nội mình
thường trọ hai nơi, một là nhà Phạm Xuân. Chỉ hai nơi đó là mình cảm thấy hoàn
toàn tự do như ở nhà mình.
Nhà thằng Nguyên bằng cái lỗ mũi, chưa đầy chục mét vuông. Vợ chồng nó còn trẻ, có mình chúng nó như bị cấm đoán chuyện vợ chồng, rất khổ nhưng chúng nó vẫn vui vẻ. Mình cũng ái ngại lắm.
Thường trước khi ngủ mình nốc rượu thật say, một là để ngủ cho ngon, khỏi phải tưởng tượng lung tung, hai là ngầm thông báo cho chúng nó là mình say rồi, “chết” rồi, muốn làm gì thì làm, hi hi.
Nhà thằng Nguyên bằng cái lỗ mũi, chưa đầy chục mét vuông. Vợ chồng nó còn trẻ, có mình chúng nó như bị cấm đoán chuyện vợ chồng, rất khổ nhưng chúng nó vẫn vui vẻ. Mình cũng ái ngại lắm.
Thường trước khi ngủ mình nốc rượu thật say, một là để ngủ cho ngon, khỏi phải tưởng tượng lung tung, hai là ngầm thông báo cho chúng nó là mình say rồi, “chết” rồi, muốn làm gì thì làm, hi hi.
Lúc đầu cứ ra Hà Nội là mình tấp vào nhà thằng Nguyên.
Một hôm, anh Quán đến chơi nhà thằng Nguyên gặp mình ở đấy. Tàn cuộc anh kéo
mình ra ngõ, nói mày vô nhà lấy đồ anh chở lên nhà anh. Mình ngạc nhiên, nói
răng rứa anh. Anh cười, vỗ nhẹ vai mình, nói mày có vợ rồi mà tồ lắm. Mày nằm
chềnh ềnh ra đó, tụi nó biết mần ăn ra răng. Mình ok liền, vui vẻ theo anh về
nhà. Bây giờ mình mới để ý chiếc xe đạp của anh Quán, nó to quá cỡ, trông thô
kệch kinh hồn, chưa bao giờ mình thấy chiếc xe đạp nào to kềnh càng và thô kệch
như xe này, ống tuýp khung xe to hơn cổ tay, nan vành xe chiếc nào chiếc nấy to
bằng đầu đũa, không thèm nói ngoa.
Anh Quán nói đó là xe trâu, người Nga dùng nó làm xe thồ,
chở vài tạ vẫn chạy tốt. Mình hỏi sao anh mua xe này. Anh cười cái hậc, nói tiền
đâu mà mua, có tiền cũng chẳng có mà mua, xe này khắp Hà Nội bói không ra một
chiếc. Mình nói ủa, rứa răng anh có. Anh nói người ta tặng. Mình hỏi ai tặng,
anh nói Lênin. Mình cười phì, nói anh không biết nói trạng. Lênin chết năm nào,
anh sinh năm nào mà bảo Lênin tặng anh chiếc xe đạp này. Anh cười hì hì, nói rứa
mới tài.
Mình không hỏi nữa vì biết thế nào anh cũng kể, tính anh
thích kể có đầu có đuôi, ít khi kể gọn lỏn một câu. Anh hay kể mấy chuyện liên
quan đến sự viết của anh. Anh kể cái truyện Vượt Côn Đảo tất
nhiên anh bịa, hồi đó nghe người ta kể lại một phần anh bịa ra chín phần. Cho
đến ngày anh ngồi kể cho mình nghe, khoảng năm 85 - 86 chi đó, anh vẫn chưa biết
Côn Đảo méo hay tròn. Trong đó có mấy câu anh tả con đường từ nhà tù ra bãi
dương (trường bắn) được lót xương của các tù nhân bị án tử hình. Là anh bịa ra
thế để nâng cao lòng căm thù Đế quốc thực dân chứ xương người làm sao lót được
đường. Chẳng ngờ trong hồi ký của một ông ở tù Côn Đảo về (ông này nổi tiếng
lắm, không dám nêu tên, hi hi) khi viết về con đường này cũng tả y chang như anh
tả, cũng con đường lót xương các tù nhân, he he.
Cũng chuyện tù Côn Đảo, trong Trường ca Võ Thị
Sáu (thực ra là bài thơ dài, in nguyên một trang báo Tiền
Phong) anh viết tuổi 16 chị Sáu vẫn hái hoa lê-ki-ma cài tóc. Buổi sáng ngày
bị hành hình, chị đã ngắt một nhành hoa lê-ki-ma cài lên mái tóc, trên đường ra
pháp trường chị vừa đi vừa hát. Anh đâu biết lê-ki-ma là cây gì, nghe cái tên
đẹp thì tưởng hoa của nó chắc đẹp lắm. Sau này mới biết lê-ki-ma thực ra là cây
quả trứng gà, hoa đã xấu lại đầy nhựa, “ngắt một nhành hoa cài mái tóc”
có mà dở hơi. Ai dè bác Nguyễn Đức Toàn lấy cảm hứng từ bài thơ của anh để viết
bài Biết ơn Võ Thị Sáu (chắc khi đó bác Toàn cũng không biết
cây lê-ki-ma là cây gì): Mùa hoa lê-ki-ma nở ở quê ta miền đất đỏ/ Thôn
xóm vẫn nhắc tên người anh hùng/ Đã chết cho mùa hoa lê-ki-ma nở…Chị Sáu đã hy
sinh rồi/ Giọng hát vẫn như còn vang dội vào trái tim…Anh Quán cười khà khà,
nói sau này hễ viết về chị Võ Thị Sáu thì người ta lại bê nguyên chi tiết này
vào, vui quá là vui.
Đến ngày thứ ba anh Quán mới kể sự tích chiếc xe trâu.
Bữa đó trời mưa, anh đi đầu về, chạy rật rật vào nhà, miệng nói tay chỉ, nói Lập
Lập mày bê chiếc xe đạp vào nhà cho anh. Mình chạy ra, vừa nhấc lên đã lè lưỡi,
nặng quá là nặng. Mình vừa thở vừa nói xe này đúc bằng sắt hay sao, nặng như
chiếc xe máy. Anh Quán cười nhẹ, nói thì bằng sắt chứ sao, có tí nhôm nào đâu,
có rứa mới gọi là xe trâu. Anh lôi chai rượu vừa kiếm đâu về rót ra hai ly, nói
uống đi. Xe này anh kiếm được thời viết văn chui đấy, chuyện hay
lắm.
Anh kể đâu như năm 69 - 70, bé Đỗ Quyên, con gái đầu của
anh, đang học cấp I. Mùa hè thì không sao, cứ đến mùa đông là nó thường xuyên đi
học muộn. Trời rét mướt cả nhà ngủ khì trong chăn ấm, đến khi tung chăn vùng dậy
đã bảy, tám giờ rồi. Con gái bị cô giáo phê bình liên tục, anh xót lắm, nghĩ
bụng không biết làm thế nào kiếm được cái đồng hồ báo thức. Đồng hồ báo thức
Liên Xô hồi đó bán phân phối giá 20 đồng, đối với anh Quán là cả một món tiền
to. Nhưng giá có kiếm được 20 đồng cũng chả đến lượt anh, sổ gạo còn hồi hộp sợ
có ngày bị cắt mất, anh đâu dám mơ được phân phối đồng hồ.
Đến chơi nhà Trần Dần, anh thấy có tờ họa báo Phụ
nữ Liên Xô, vừa lật vài trang chợt thấy thông báo thể lệ cuộc thi viết về
Lênin. Ngó xuống phần giải thưởng, giải khuyến khích là đồng hồ báo thức, bút
máy và một vài thứ khác. Lập tức anh về nhà viết ngay, quyết giành cho được cái
giải khuyến khích. Chừng hai ngày anh viết xong cái truyện Như con cò
vàng trong cổ tích. Tất nhiên anh không lấy tên thật. Anh thư vào Nghệ An
cho chú em họ đang làm công nhân lâm trường gì đấy, xin phép được lấy tên anh
ấy. Sở dĩ anh lấy tên chú em họ, vì chuyện thi cử anh không dám mượn tên mấy ông
bạn nhà văn anh vẫn mượn tên, hơn nữa lấy tên một người thuộc giai cấp công nhân
chắc người ta sẽ ưu tiên hơn.
Mới gửi thì thấp thỏm lắm, thỉnh thoảng có bưu tá gọi ra
ngõ lấy thư, trống ngực đập to hơn trống làng, cứ tưởng bở thư chú em họ báo tin
giải thưởng. Hơn nửa năm vẫn biệt vô âm tín, tuyệt vọng luôn. Trách mình to đầu
mà dại, tự nhiên đơm đó ngọn tre, đấu với các anh tài của cả 12 nước Xã hội Chủ
nghĩa, cái giải rút cũng đừng có mà mơ.
Một hôm rượu say anh ngủ như chết, chị Trâm, vợ anh, véo
cho cái rõ đau. Anh giật mình mở mắt, chị Trâm cầm tờ giấy báo trúng giải chú em
họ vừa cầm ra đưa qua đưa lại trước mắt anh, ối cha mẹ ơi giải nhất! Anh tự véo
đùi mình hai ba cái để xem mình tỉnh hay mơ. Chú em họ mặt nhăn như bị, nói anh
mần ri chết em rồi. Anh hỏi sao. Chú em họ kể giấy thông báo về buổi sáng, buổi
chiều đã ồn khắp lâm trường, một ngày sau thì ồn ra cả tỉnh. Một ông công nhân ở
nơi khỉ ho cò gáy bỗng nhận cái giải nhất của Liên Xô, lại giải nhất viết về
Lênin thế mới kinh. Đài lâm trường, đài huyện, đài tỉnh đua nhau nói râm ran.
Các nhà báo kéo nhau về lâm trường ầm ầm, chú em họ hãi quá, nửa đêm nhảy tàu ra
nhà anh.
Chuyện nghiêm trọng. Việc này nếu lộ ra chẳng những anh
mất toi cái giải nhất mà việc viết văn chui của anh hơn chục năm qua nhất định
bị lật tẩy, khéo không tù tội như chơi. Anh lạy lục chú em họ đã thương thì
thương cho trót, cố làm sao đừng để chuyện này lộ ra. Anh diễn giải phân tích
cái truyện, đặt ra đủ loại câu hỏi rồi trả lời, để chú em họ đối phó với đám nhà
báo. Chú em họ cay đắng ra về, thôi thì đâm lao phải theo lao, nếu lộ ra anh
Quán chết thì anh cũng chết theo, chẳng phải chuyện chơi.
Được hơn một tuần, nửa đêm chú em họ lại mò ra, lôi trong
bị ra cái đồng hồ báo thức và năm chục đồng đưa cho anh Quán, nói của anh đó,
anh cầm đi rồi tha cho em, hai ba tuần nay vợ chồng em mất ăn mất ngủ, kiểu này
rồi cũng “tăng xông” đứng tim mà chết, chẳng sống được đâu. Hỏi thì chú em họ
kể, hết lâm trường mít tinh biểu dương đến huyện, sở hội họp khen ngợi. Lại còn
Tỉnh ủy gọi lên chiêu đãi, tặng 50 đồng; Ủy ban tỉnh gọi lên chiêu đãi, tặng
đồng hồ báo thức. Hai vợ chồng chú em họ sợ hết hồn, cứ mỗi lần có trát gọi là
tim họ nhảy lên sau gáy, mặt mày xanh như đít nhái.
Rồi cũng qua. Ngày anh Quán đưa chú em họ đến Đại sứ quán
Liên Xô nhận chiếc xe đạp là ngày cuối cùng trong suốt ba tháng trời căng thẳng
hồi hộp. Anh nấp sau gốc cây bên kia đường, đối diện cổng Đại sứ quán, căng
thẳng đến độ mồ hôi đầm đìa toàn thân, ướt sũng cả áo quần, chỉ sợ đến phút chót
mọi việc bị lật tẩy. Chờ suốt ba tiếng đồng hồ mới thấy chú em họ đẩy chiếc xe
đạp đi ra. Anh ôm chầm lấy chú em họ nghẹn ngào không nói được. Hồi lâu mới nấc
lên, nói em ơi, ơn em đời đời kiếp kiếp. Anh theo Vệ quốc quân vào sống ra chết
không biết bao nhiêu lần, chưa lần nào anh sợ như lần này.
Nghe đến đây tự nhiên mình muốn
khóc.//
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét