Wikipedia

Kết quả tìm kiếm

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

TIẾNG SÁO DIỀU KỶ NIỆM [1]

Tiếng Sáo Diều Kỷ Niệm!


Đỗ Đình Toại                
(Hình minh hoạ)
(Hình tren Internet)

Chúng ta thường được nghe nói đến “Tiếng Sáo Diều”, thường thường là trong một đoạn văn nào đó tả một cảnh đồng quê thanh bình, dưới làn gió nhẹ với hương thơm của cỏ cây và ruộng lúa.  Thêm vào khung cảnh đó, có tiếng sáo diều trầm bổng trên không trung như muốn bao trùm hết thẩy mọi sinh vật bởi tiếng nhạc dịu dàng và êm ái.  Các văn sĩ, khi mà nổi hứng lên thì tha hồ mà tưởng tượng.  Như Nhất Linh trong truyện “Bướm Trắng” đã tả một chàng trai mơ mộng nghe đến tiếng sáo diều của các trẻ chăn trâu thả bên mộ phần của mình.  Nhưng trên thực tế đã có mấy ai thực sự được thưởng thức tiếng nhạc của sáo diều và say đắm trong cái khung cảnh đồng quê thơ mộng đó.
  • DIỀU LÊN MỎI CỔ, DIỀU BỔ MỎI CHÂN
Các bà mẹ thường thấy mấy đứa con trai mình phải vất vả với cái diều mà cũng chưa xong cho.  Thực là phải tốn biết bao công trình.  Nào là đi kiếm tre để vót khung diều, nào là phất diều bằng giấy bản và nước cậy, nào là phải phơi nắng cho khô và…khi mà tất cả mọi việc đã được thực hiện xong xuôi lại còn phải đợi cho đến khi nào có gió đều và đủ mạnh mới có cơ hội mang diều ra để thử xem diều có lên hay không?  Nào là diều lùn không bốc lên được, nào là diều ngớp đâm bổ đầu xuống, nào là diều ghé sang hướng Đông, hay ghé sang hướng Tây…Lại còn đến khi diều bị đứt giây thì ta hồ mà chạy…cho mau, kẻo chẳng may mà bổ vào nhà người ta thì diều sẽ bị chặt ra từng mảnh (vì theo mê tín, nhà nào bị diều bổ sẽ bị cháy).  Vất vả như thế mà con trai đứa nào cũng vẫn thích thả diều.  Đó mới là chỉ nói đến cái diều không thôi, chứ chưa nói đến diều có gắn sáo.  Diều sáo thi trẻ con không thể nào thực hiện nổi.  Đó là chuyện của người lớn và cũng là của các cụ già.  Các cụ già, nhiều cụ còn mải mê chơi diều, nhưng chắc chắn là diều có sáo, vì các cụ thích nghe tiếng sáo của diều.  Nào là cụ Bá Tuội (kiêng tên Toại) có cặp sáo diều nổi tiếng hay nhất vùng.  Nào là cụ Tổng Cuỗi (kiêng tên Quỹ) có bộ sáo cặp ba được sơn son thiếp vàng và được coi như là của gia bảo, cha truyền con nối, không thể để lọt vào tay người ngoài được.

(cảnh bầu trời xanh đầy những con diều -Toronto)
(cảnh bầu trời xanh đầy những con diều -Toronto)

Khi xưa, ở vùng qụê Bắc Việt, đến mùa gió Nam thổi đều, nhiều làng thường nghe có tiếng sáo diều vi vu trầm bổng khắp nơi.  Nhưng với tai một nhạc sĩ thì lại chẳng phải là nhạc mà là những âm thanh của một dàn nhạc không có hợp âm, có chống đối nhau cũng mặc.  Xin hãy cứ tưởng tượng là một dàn nhạc mà giây đàn còn sai cung bực và kêu loạn lên thì sao có thể gọi là nhạc được?  Đó chỉ là khung cảnh thơ mộng của các văn sĩ, khi họ nổi hứng mà tưởng tượng ra.  Vì vậy, nên khi nghe nói ai có một bộ sáo hay thì mọi người trong vùng đổ xô tới mà tán thưởng.
  • YÊU NGHỆ THUẬT
Người yêu nghệ thuật có thể ví như là một cây đàn đã được lên giây, lúc nào cũng sẵn sàng để rung động bởi cảnh vật và tiếng động bên ngoài.  Cũng ví như một giòng điện chạy trong cơ thể.  Khi bị kích thích thì nổi hứng lên, nếu luồng điện quá mạnh, không tự chủ được thì có thể say sưa như lên đồng.  Tình cảm bị kích thích đến cao độ, làm cho toàn thân nổi lên như da gà.  Tôi đọc truyện ngắn “Điệu Thu Ca” trong cuốn Hoa Vông Vang của Đỗ Tốn thấy anh đã cởi áo ra để hấp thụ lấy ánh nắng bên ngoài cho thấm vào da thịt.  Đó là lúc anh đã cảm xúc lên tới tột độ, làm anh say sưa như thế.  Tôi tin rằng sự kiện đó đã thực sự xẩy ra.
Từ yêu đến nghiện không có cách nhau xa mấy, vì là không có thì thấy thiếu.  Có người nghiện thuốc phiện, thuốc lào, có người nghiện thơ nghiện nhạc…Mỗi ngày phải được nghe một vài bản nhạc ưa thích, không thì vẩn vơ nhớ như nhớ con nghiền.  Hơn nữa, nghe nhạc có thể đoán biết được tâm sự của người nhạc sĩ.  Khi Bá Nha gẩy đàn, Chung Tử Kỳ ngồi nghe.  Chung Tử Kỳ đã biết Bá Nha đang nghĩ đến cái gì.  Nghe hát cũng vậy, nghe ca sĩ hát, ta có thể đoán biết được tâm sự của họ, học vấn và giáo dục gia đình mà họ đã thụ hưởng ra sao.
Nếu không có máu yêu nhạc theo truyền thống gia đình thì đôi khi cũng khó lòng mà yêu được nhạc.  Lại còn phải được rèn luyện hàng ngày thì mới biết thưởng thức.  Một bản nhạc cổ điển như Symphonie Pastorale lừng danh của Beethoven, phải được nghe ít nhất là độ mười lần mới bắt đầu thấy cái hay.  Nhưng khi đã nghe thấy hay thì lại khó lòng mà quên mà chán được.  Bản nhạc đã ăn sâu vào lòng và thành những giòng kỷ niệm.  Hơn nữa phải luyện tai để có thể chỉ nghe riêng một điệu nhạc trong một bản hòa tấu, còn bỏ ra ngoài tai tất cả các điệu nhạc khác…Như khi ta nghe một bộ sáo diều cũng vậy, ta phải nghe tách ra từng cái sáo một, nếu không thì chỉ nghe thấy ào ào một mớ lộn xộn mà thôi.
Người ta chơi diều sáo, thường là đi góp lượm được một số sáo đã hoàn thành từ trước, rồi lựa chọn trong những số sáo đó để mà ghép lại thành một bộ khi mà nghe thấy xuôi tai là được.  Vì kỹ thuật còn kém nên chưa biết căn tiếng của từng cái sáo một cho được hợp âm với nhau.. Tôi nghĩ như thế thì không thể nào có một bộ sáo lý tưởng được.
Thưởng thức tiếng sáo diều cũng khó như khi ta nghe một bản nhạc vậy.  Tiếng sáo diều thường hay bị “sôi” nghĩa là có một âm thanh bị ngắt đoạn ra rất mau, nên nghe như là tiếng bong bóng của nước đang sôi mạnh.  Cái khuyết điểm là ở chỗ hai tiếng sáo không cùng ở một tần số (hay là chỉ cách nhau chút đỉnh mà thôi) mà là tại sự cách biệt nhau quá xa, nên khi hai tiếng đó giao động với nhau, phát sinh ra những “nút” yên lặng liên tiếp rất mau.  Chỉ cần thay đổi làm sao cho hai tiếng sáo đó được giống nhau như hệt, vì như ta lên giây một cung đàn song đôi cũng vậy.  Cũng nên biết là cái sáo diều không phải là một mà là hai cái sáo chập thành một, cùng chung một cái ống, có hai đầu và hai miệng sáo riêng biệt.  Nếu là chỉ có một cái sáo thôi thì ta sẽ có một âm thanh liên tục, không bị ngắt ra từng tiếng một.  Tất cả cái khó là chỉ cần căn làm sao cho hai tiếng của hai đầu sáo được giống hệt như nhau mà thôi.  Nói thì dễ mà thực hiện được thì rất là khó vì gặp phải nhiều trở ngại.  Thứ nhất là cái ống để làm sáo thường là ống tre hay ống trúc.  Cái ống đó không bao giờ hai đầu giống nhau như đúc được, mà là đầu to đầu nhỏ, cái ống đó cũng không bao giờ tròn đều nhau.  Thứ hai là phải ngăn đôi cái ống đó ra làm hai khúc thật kín và riêng biệt, đủ chỗ để cắm được một cái cọc nhỏ ở giữa.  Thứ ba là phải có hai cái miệng sáo càng giống nhau càng tốt để gắn vào hai đầu.  Thứ tư là ngày xưa chỉ gắn bằng sơn ta mà thôi, nhưng cái thất bại là khi đã gắn vào rồi thì không tháo ra được nữa, thành ra không có cách nào mà thay đổi được sự cao thấp của tiếng sáo cho đúng với tần số đã được lựa chọn.  Nói tóm lại, nếu ta có thể thay đổi tần số của tiếng sáo theo ý muốn là đủ để thành công và như vậy là có được một cái sáo tốt, không cần phải để ý nhiều đến mọi sai biệt khác.  Khi hai tiếng sáo cao bằng nhau, đến lúc bị gió thổi kêu thành hai tiếng thì sẽ giao động với nhau, phát sinh ra những nút yên lặng và những bọng cộng hưởng, có một tần số hòa hợp dài lâu, mà ta gọi là sáo hồi, chậm hay mau là tùy ở sức gió chênh lệch ở hai miệng sáo.  Một cái hay nữa của tiếng sáo là khi gió cất mạnh lên thì cả hai tiếng sáo đều cùng nhau đổi cung cao hơn lên, như hệt là có một bàn tay của người nhạc sĩ nắn cao cung đàn lên vậy.
Một cái sáo được thực hiện như kể trên, khi thả một mình lên trời cũng đã nghe hay lắm rồi.  Tiếng sáo khi chậm khi mau, khi cao khi thấp như là có một nghệ sĩ với cây đàn, đang vui buồn với cảnh vật.  Và nếu ta có được một bộ sáo cặp đôi, cặp ba hay cặp bốn thì chẵng khác gì ta có một ban nhạc đang hòa tấu với cùng một tâm sự vui buồn: diều cất cánh thì vui, diều lùn xuống thì buồn.  Với cặp đôi ta có thể hòa hai tiếng thành ra “bính boong” của chuông nhà thờ trong những ngày thường.  Với cặp ba, ta có thể ghép thành “bính boong boòng” của chuông nhà thờ trong các ngày đại lễ.  Với cặp bốn, ta đã có một ban kèn đồng nhà binh rồi (bugle hay clairon), có đủ bốn cung của “Hợp âm toàn trưởng (Accord parfait majeures)”.  Những ai sinh trưởng ở thành phố Nam Định chắc không thể nào quên được tiếng chuông nhà thờ những khi có các lễ cưới lớn.  Ba cái chuông cùng tung bay hắt vang tiếng nhạc lên trời, làm rung chuyển cả một bầu không khí.  Ba tiếng “bính boong boòng” vang đi và vọng lại nghe thật sống động.  Tôi chưa từng thấy ở đâu có được một bộ chuông tiếng nghe hay đến thế.
Loại (ồng) Sáo Đôi (Hình trên Internet)
Loại (ồng) Sáo Đôi (Hình trên Internet)
  • MỘT BỘ SÁO BỐN ỐNG ĐƯỢC THỰC HIỆN THEO “HỢP ÂM TOÀN TRƯỞNG”
Tôi không biết sáo diều được phát sinh ra ở Việt Nam từ hồi nào.  Theo như một cuốn sách nói về các loại diều của Tây phương thì có thấy vẽ một cái diều kiễu “lá đa”, có gắn một ống sáo ở trên và được chú thích là của người Trung Hoa.  Theo chữ Hán, sáo diều có tên là “Phong Tranh”.  Phong là gió, Tranh là đàn tranh.  Vậy chắc chắn là kỹ thuật làm sáo diều ở nước ta là do người Trung Hoa truyền lại.  Nói riêng về sáo thôi thì kỹ thuật làm sáo diều ở vùng quê Nam Định mà tôi được biết, kể như là không có gì, mặc dù có nhiều người chơi diều có gắn sáo đủ cỡ lớn nhỏ.  Tôi cũng không được gặp một người nào chuyên môn làm sáo và gọt miệng sáo cả.  Một vài cái sáo loại được sơn son mà chúng tôi sưu tập được thì cũng đã lâu đời rồi, mà lại bị hở, bị bong các chỗ gắn bằng sơn ta, bị nứt rạn, có chỗ được gắn kín lại bằng nhựa sung nữa.  Nhưng ba anh em chúng tôi, vốn có giòng máu nghệ sĩ trong người do ông bà, cha mẹ để cho, đã hiểu biết về nhạc lý và định lý về âm thanh, đâu có thể chịu bó tay.  Chúng tôi phải thực hiện cho bằng được, ít nhất cũng là một bộ sáo cặp bốn được gọt theo tiếng nhạc kèn lính (clairon) để nghe ra như thế nào.
Theo kỹ thuật âm thanh về ống sáo thì:  khi hai ống sáo có tần số cách biệt nhau bằng một “octave” thì có hình thức bằng một phần nửa về tất cả mọi chiều và một “Hợp Âm toàn trưởng (accord parfait majure)” với bốn cung thì có tần số tương đối là:  3/3, 4/3, 5/3, và 6/3.  Kích thước các ống sáo phải được gọt theo tỷ lệ nghịch.  Vậy cứ theo đường lối đó mà đi tìm ống tre, gọt bớt đi cho được thật nhẹ, còn miệng sáo thì cứ rập theo những cái đã kêu mà gọt, to nhỏ tùy theo tỷ lệ kể trên.  Chúng tôi cũng biết phải trừ hao ống sáo để có thể cho chiều dài thêm lên hay bớt đi, tùy theo cao thấp cần phải thực hiện.  Chúng tôi không dùng sơn ta mà dùng tạm hồ gạo nếp, nấu thật kỹ, dẻo như hồ hàng mã, để gắn miệng sáo vào ống.  Còn tần số căn bản thì chúng tôi lên giây một cây đàn guitare (dùng 4 giây thôi) theo bốn cung của Hợp Âm toàn trưởng.  Tất cả tám miệng sáo đó được thổi bằng mồm kêu thành tiếng và để gần sát khúc giữa các giây đàn.  Và ngay từ khi hồ gắn còn chưa khô, các miệng sáo phải được căn tới lui trên ống sáo cho đến khi các giây đàn kêu ngân tiếng lên theo từng tiếng sáo một (bởi thụ hưởng).  Thế là thành công.
  • THÀNH CÔNG
Làm chơi, mò mẫm, nhưng ăn thật.  Đã lâu lắm rồi…Nhưng tôi còn nhớ rõ ràng là…buổi trưa ngày hôm đó, vào mùa hè năm 1942, được có gió tốt, và ngay từ khi bộ sáo vừa mới được hoàn tất nhưng hồ gắn còn chưa được khô, chúng tôi cho thả cặp sáo đó trên một con diều phất theo kiểu “Cánh Cốc”, hai đầu cánh cách nhau chừng một sải tay (l mét 6). Chúng tôi đem diều ra thả trên một cánh đồng làm mầu, khô và cao ráo, ở ngay đằng sau nhà.  Diều thì đã được thả nhiều lần rồi, nên không sợ làm hư bộ sáo.  Ngay từ lúc diều cất lên khỏi mặt đất, chúng tôi đã nghe thấy tiếng nhạc của toàn bộ kêu thật rắn tiếng và đầy đủ bốn cung.  Khi diều đậu yên một chỗ thì chúng tôi nhận thấy rằng bộ sáo mà chúng tôi vừa thực hiện đã hoàn toàn được như ý muốn vì không nghe thấy có một khuyết điểm nào cả.  Chúng tôi sung sướng quá.  Thật là không ngờ lại được kết quả ngay từ lần đầu.  Nghe tiếng nhạc vi vu trên tầng trời mà người tôi run lên, ngẩn ngơ như vừa mới bắt được của báu.  Ba anh em tranh nhau truyền tay mỗi người nắm giữ giây diều một lúc để cho thỏa trí và cũng để thử xem có còn nẩy thêm ra ý kiến nào khác để có thể được hoàn hảo hơn nữa không?  Nhưng không.  Hay đến như thế là tột điểm rồi.  Bốn cung nhạc không sai một tý nào.  Tiếng nhạc lúc ngắn, lúc kéo dài, lúc cao lúc thấp, và đổ thành hồi lúc chậm lúc mau, nghe thật du dương.  Thôi thì tha hồ mà tưởng tượng…Trong đầu óc tôi có muốn theo đuổi một bài kèn lính nào cũng nghe thấy…Nào là bản “Đánh Thức (Reveil)”, nào là bản “Tắt Đèn (Extinction de feu)” v..v…Ngay cả đến bản “Lâm Khốc” (kèn đám ma ở nhà quê) cũng nghe thấy rõ  trong tai tôi…vi vu réo rắt, tiếng xa văng vẳng, tiếng gần âm u…Tôi đang mơ mộng thì thấy những trẻ chăn trâu bò ở cánh đồng đó cũng bị ảnh hưởng của tiếng nhạc.  Đứa thì huýt sáo mồm, đứa thì nghê nga bài kèn lính:  “Ông Trùm Tín ơi, nhà tôi có bát sôi bát chè, mời ông đến mà xơi…” và cảnh vật trên cánh đồng đó trở nên nhộn nhịp và vui vẻ hẳn lên.  Rồi đến lượt mấy ông hàng xóm cũng chạy tới chỗ chúng tôi đang tụ tập, để hỏi thăm xem bộ sáo mà chúng tôi đang thả có phải làm bằng ống đồng không mà sao lại kêu vang tiếng đến như thế được?  (Lý do tiếng sáo kêu vang là vì bốn cung tự hỗ trợ cho nhau theo định luật tự nhiên của một “Hợp Ân toàn trưởng).  Và cho mãi tới chiều tối ngày hôm đó, khì trời tắt gió, chúng tôi mới chịu mang diều về.  Mấy ngày tiếp sau đó, có những người ở các làng lân cận, xuôi theo hướng gió, khi gặp chúng tôi cũng hỏi thăm tới bộ sáo, vì họ biết ràng không thể có người nào khác mà thực hiện nổi bộ sáo đó, trong vùng này được.  Một kỷ niệm nữa riêng cho chúng tôi là:  Ông thân sinh chúng tôi đang ở ngoài tỉnh, khi biết được tin cũng mò về làng để nghe bộ sáo… Tôi cũng còn nhớ rõ lắm.  Khi diều đã được thả lên, ông đòi cho mang tới bờ ao, dưới bóng mát hàng cây, một chiếc ghế dựa để ông một mình ngồi nghe…và ông đã thưởng thức bộ sáo đó xuốt từ khoảng hai giờ trưa cho đến chập tối.  Khi hết gió, chúng tôi mang diều về, thì ông chỉ bình phẩm có một câu gọn lỏn:  “Hay thật!”.
Thế rồi nước ta được biết mùi bom đạn và cuối năm đó, ông thân sinh ra chúng tôi đã đột ngột từ trần sau một cơn bạo bệnh (Thương hàn nhập lý).  Ông được đưa về an táng cũng tại cánh đồng mầu ấy, trên một mảnh ruộng mà cách đấy không lâu, chúng tôi đã thả con diều sáo lúc trước để ông nghe và ông đã thưởng thức những giờ phút say sưa tiếng nhạc sáo tuyệt vời…
Bộ sáo ấy, sau được gắn lại vĩnh viễn bằng sơn ta.  Nhưng chúng tôi không còn có cơ hội nào để được nghe lại nữa.  Sáo cứ để trong tủ cho bụi bám…hết năm này qua năm khác.  Rồi chúng tôi cũng đã bỏ làng ra đi…vĩnh biệt bộ sáo mà không biết ngày nay đã lọt vào tay ai?…Ra đi, nhưng chúng tôi đã để lại một kỷ niệm lịch sử về sáo diều mà sau này, khi chỉ còn một mình tôi (hai em tôi đã chết) đã không thể tìm lại được ở bất cứ nơi nào đã đặt chân tới, trên con đường tị nạn.
Cho đến nay, tôi chưa hề viết một câu văn thơ nào…Nhưng, mỗi khi hồi tưởng lại những kỷ niệm xa xưa, tôi không thể ghìm được mấy giọt nước mắt.
                                              Nhớ xưa, những buổi xế chiều,

                                              Đồng quê lộng gió, sáo diều vang xa,

                                              Vang vang gió nhạc thoảng hồn,

                                              Quê hương thơm mát, tâm hồn thảnh thơi.
  • GIẤC MƠ CHƯA TỈNH
Tôi vẫn thường tự nhủ:  Ấp ủ làm chi một kỷ niệm…Khi nào nổi hứng, mình sẽ gọt một bộ sáo khác.

Burbank, November 1985
  Đỗ Đình Toại

Loại Diều Cánh Cốc (Hình trên Internet)
Loại Diều Cánh Cốc (Hình trên Internet)
  • TÌM ĐƯỢC KỶ NIỆM
Một con diều kiểu hoàn toàn Việt Nam, hình chiếc lá đa, chiều dài độ một sải tay, khung bằng tre, phất bằng vải hoa mỏng, trên có gắn một cặp bốn ống “sáo đôi”, được gọt theo hợp âm RỀ-SOL-SI-RẾ đã được thả cao trên bầu trời xanh biếc (nhưng ồn ào) của bãi biển Santa Monica lâu xuốt một buổi chiều dài ngày 5 July 1987.  Bốn mươi nhăm năm đã trôi vào dĩ vãng, nhưng gia đình tôi (với con và cháu) đã tìm được một chút gì còn lại của quê hương.
  • NHẠC THIÊN NHIÊN
Hồi còn nhỏ, tôi thường thấy một người mù đi hát rong, cứ thỉnh thoảng lại đến trước cửa nhà cha mẹ chúng tôi mà hát oang oang lên.  Thêm nữa, anh ta lại thổi được các bản kèn lính mà chỉ dùng có ba hay bốn cái ống lá đu đủ nối lại với nhau.
Kèn lính phát âm được bốn cung của Hợp Âm toàn trưởng mà không cần phải thay đổi chiều dài của ống nhưng lại thay đổi lớp sóng của không khí chứa bên trong.  Vì vậy bốn tiếng nhạc đó liên hệ chặt chẽ với nhau.  Ngay như cảnh vật ở bên ngoài, khi gặp sức gió thay đổi, nhiều khi cũng phát sinh ra hợp âm đó.  Hợp Âm toàn trưởng là căn bản cho hầu hết các loại nhạc và thường được dùng làm những nét nhạc chính cho những bản nhạc về đồng quê (hay chiến trường).  Rõ rệt nhất là đoạn cuối cùng của bản đại hòa tấu Symphonie Pastoral số 6 của Beethoven có tên là “Tiếng nhạc của người chăn cừu”, tả phong cảnh đồng quê thật là đậm đà, sâu sắc.//

 ĐĐT       
                                                                                        
(Hình trên Internet)
(Hình trên Internet)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét