Wikipedia

Kết quả tìm kiếm

Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

tác giả Nguyễn thiếu Nhẫn - về một cuộc hội thảo!


TỪ CUỘC HỘI THẢO “BỂ DÂU” ĐẾN “VỤ ÁN WILLIAM JOINER CENTER”

-Nguyễn thiếu Nhẫn  -    

LTG: Trước đây chúng tôi đã phổ biến bài viết “Lật tẩy những nhà văn, nhà báo làm lợi cho CSVN”
Để độc giả cái cái nhìn rõ hơn về đường đi nước bước của những văn nghệ sĩ VN trong nước và hải ngoại đã thực hiện công tác trí vận của CSVN tại hải ngoại, chúng tôi cho phổ biến lại bài viết này.Bài viết đã được viết từ năm 1995, sau đó bổ sung nhiều chi tiết vào năm 2003.
Những năm gần đây, CSVN lại đưa các văn nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo từ trong nước tiếp tục tấn công ồ ạt vào cộng đồng hải ngoại; nhưng tất cả đều vỡ trận: Từ việc đưa kịch nói sang Mỹ trình diễn đến việc phát hành sách “Bên Thắng Cuộc” của “Vẹm Hô” Trương Huy San, tức Huy Đức,việc thành lập “Viện Trần Nhân Tông” tại đại học Harvard của Nguyễn Anh Tuấn và Lê Mạnh Thát, tức “Thiền sư” Trí Siêu
 
Những tay sai VC và những kẻ “chống (VC) không được thì theo (VC)” để hưởng chút lợi danh cuối đời đều bị lộ mặt trước Lẽ Phải và Sự Thật!

*

Vào năm 1993, tại phòng họp của quận hạt Santa Clara tại số 70 West Hedding, có một buổi ra mắt sách cùng được tổ chức với một buổi hội thảo về giao lưu văn hóa. Người ra mắt sách là nhà văn Nguyễn Bá Trạc với quyển sách có tựa là “Người Di Cư Nhức Đầu Vừa Phải.” Tham dự cuộc hội thảo về giao lưu văn hóa gồm các ông: cố nhà báo Lê Đình Điểu, nhà báo Thượng Văn (tức Lâm Văn Sang – thay thế nhà thơ Hà Thượng Nhân, theo lời Ban Tổ chức là bị bệnh bất ngờ), nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc, các nhà văn Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Khởi Phong, Hoàng Liên, Đào Khanh, Nguyễn Bá Trạc. Người tổ chức buổi hội thảo là “nhà văn” Giao Chỉ, tức cựu Đại tá Vũ Văn Lộc.

Cuộc hội thảo coi như không thành công vì các câu hỏi được nhắm vào các tác phẩm của hai nhà văn Nguyễn Mộng Giác và Khánh Trường (ông nhà văn này không có mặt trong tham luận đoàn – Ghi chú của người viết bài này). Cựu Trung tá Nhảy Dù Bùi Đức Lạc chất vấn nhà văn Nguyễn Mộng Giác về việc nhà văn này đã viết về việc lính Nhảy Dù QLVNCH đã cắt lỗ tai cán binh Việt Cộng xỏ xâu đeo trong truyện dài “Mùa Biển Động.”Một người tham dự chất vấn nhà văn Khánh Trường về chuyện nhà văn này đã viết trong một truyện ngắn khi đưa quan tài của người bạn về cho gia đình và sau đó, nhân vật trong truyện đã làm tình với em gái người đã chết kế bên quan tài của người lính  Nhảy Dù QLVNCH đã hy sinh. Sau khi câu hỏi này được đặt ra, chủ tọa đoàn đã mời nhà văn Khánh Trường lên trả lời nhưng nhà văn này đã “lỉnh” đi từ lúc nào. Câu hỏi có dính líu đến buổi hội thảo về vấn đề giao lưu văn hóa là câu hỏi của nhà văn Diệu Tần khi nhà văn Đào Khanh – lúc đó ông nhà văn này còn cộng tác với tờ Thời Báo ở San Jose – nêu lên ý kiến là người cầm bút ở hải ngoại “không nên chống Cộng một cách quá đáng (sic!)” Nhà văn Diệu Tần đã gay gắt hỏi: “Vì sao ‘người di cư thì nhức đầu vừa phải’ mà những nhà văn ở hải ngoại không nên chống Cộng một cách quá đáng.”

Người viết bài viết này có đặt câu hỏi có phải ông Giao Chỉ Vũ Văn Lộc là người tổ chức cuộc hội thảo giao lưu văn hóa  này thì ông ta xác nhận do chính ông ta tổ chức, nhưng ông ta chống hợp lưu và giao lưu văn hóa (sic!)
Tưởng cũng nên nhắc lại một chi tiết là cô Đoan Trang, lúc đó là xướng ngôn viên của đài phát thanh Quê Hương Việt Nam (không phải đài phát thanh Quê Hương hiện nay), người phụ trách MC của buổi hội thảo  và ra mắt sách này, đã trở thành người tham dự và đưa tay xin phát biểu để chất vấn ban tổ chức về cái gọi là giao lưu văn hóa và công kích nhà văn Đào Khanh về quan niệm “chống Cộng vừa vừa” của nhà văn này.

Vào năm 1995, tại cuộc hội thảo “Bể Dâu Conference Vietnam and America 1995” tại San Francisco, nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã là khách thuyết trình để đọc tham luận về vai trò của văn học hải ngoại. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác rất can đảm và thẳng thắn khi viết trong bài tham luận những dòng sau đây:
“… Khi nhận lời mời của Đại học San Francisco đến tham dự cuộc hội luận này, tôi biết rõ những gì bạn bè của tôi trong cộng đồng đang nghĩ và sẽ làm. Cái chỗ tôi đang ngồi, những điều tôi sắp nói, nhiều nhà văn có uy tín xứng đáng hơn tôi để ngồi ở đây. Nhưng không ai muốn tự đưa mình vào tình thế khó khăn, không ai muốn bận tâm về những chuyện tranh luận thị phi, nên cuối cùng tôi trở thành  một người hết sức bất thường: không ai ủy nhiệm, cũng không đại diện cho ai cả, tôi lấy tư cách cá nhân của một người cầm bút trình bày một đôi điều về sinh hoạt văn chương của người Việt hải ngoại. Đúng hay sai, cá nhân tôi chịu trách nhiệm cho quan niệm này: Thay vì tẩy chay, vắng mặt trong các cuộc hội thảo về các vấn đề liên quan đến Mỹ và Việt Nam, người Việt hải ngoại cần có mặt để trình bày quan điểm của mình.” 

Tưởng cũng nên biết, cuộc hội luận này gồm hai phần. Phần thứ nhất, có tựa là “A Soldier Named Tony D.” thực hiện bởi Nguyễn Quý Đức (*) dựa vào truyện ngắn của nhà văn Việt Nam còn ở trong nước là Lê Minh Khuê. Phần thứ hai là bình văn lấy từ cuốn tuyển tập truyện ngắn  “The Other Side of Heaven” (Phía Bên Kia Thiên Đường). Tuyển tập này gồm 18 truyện ngắn (6 truyện ngắn nguyên bản Anh ngữ, 12 truyện ngắn của các tác giả Việt Nam gồm 4 truyện ở trong nước là các tác giả Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Lê Minh Khuê, Hồ Anh Thái và 8 truyện của nhà văn Việt Nam hải ngoại (Võ Phiến, Hoàng Khởi Phong (*), Nguyễn Mộng Giác, Trần Vũ, Nguyễn Xuân Hoàng, Andrew Lâm, Phan Huy Đường và Lai Thanh Hà). Cuộc hội thảo có “mục đích hàn gắn những vết thương xưa cũ, tiến tới sự thông cảm để tăng cường các giao lưu về giáo dục và văn hóa giữa Mỹ và Việt Nam.”

Chuyện lạ đối với tôi lúc đó, là nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã viết trong bài tham luận những dòng như sau:
“… Cho nên theo tôi, vấn đề chính là những người có trách nhiệm về chính sách văn hóa Việt Nam có thực sự muốn hàn gắn những vết thương xưa cũ và hòa giải dân tộc hay không? Nếu còn cấm đoán không cho sách báo hải ngoại phổ biến trong nước, hay ít  nhất không tạo điều kiện cho những người cầm bút tiếp cận với văn học hải ngoại, thì những lời tuyên bố như trên chỉ là những lời tuyên truyền chính trị.”
Tám năm sau, mọi chuyện đều đã khác. Theo tin báo chí ở hải ngoại thì, nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã được Đảng và Nhà Nước Việt Cộng cho phép in và phát hành ở Việt Nam quyển truyện “Sông Côn Mùa Lũ” mà ông ta là tác giả. Cũng như nhà văn Nhật Tiến được phép xuất bản tập truyện“Quê Nhà, Quê Người” với người em là nhà văn VC Nhật Tuấn, tác giả truyện dài “Đi Về Nơi Hoang Dã” đã được nhà văn Hoàng Khởi Phong, là người có tham dự cuộc hội thảo “Bể Dâu,” hết lời khen ngợi tại hải ngoại. Nhà văn Hoàng Khởi Phong cũng là người đã viết bài khen ngợi tuyển tập“Phía Bên Kia Thiên Đường” (mà trong đó nhà văn này có một truyện ngắn được dịch ra Anh ngữ) là “những bông hoa nở muộn của tình người(sic!).”

Một biến cố quan trọng đã xảy ra là Trung tâm William Joiner Center (WJC) thuộc trường đại học Massachusetts Boston (từ nay viết tắt là UMASS Boston) đã thuê mướn hai học giả ở trong nước là Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi viết các luận văn tập chú vào chủ đề “(Re)constructing Identity and Place in the Vietnamese Diaspora,” được WJC dịch ra Việt ngữ với nguyên văn như sau: “Tái Xây Dựng Diện Mạo và Quê Hương Người Việt Ở Nước Ngoài.”
Hoàng Ngọc Hiến nguyên là giám đốc trường dạy viết văn Nguyễn Du, Hà Nội và Nguyễn Huệ Chi là chủ nhiệm Ban Nghiên cứu và Lý luận Văn học của Viện Văn học Việt Nam. 

Nhận thấy việc đem hai viên chức cao cấp trong guồng máy tuyên truyền của nhà nước CSVN sang Mỹ để mô tả người Việt tỵ nạn là một nghịch lý trong lịch sử văn học thế giới, nên ông Nguyễn Hữu Luyện, một sinh viên cao học của UMASS Boston đã cùng 11 người khác đã đứng đơn dùng tố quyền tập thể (class action) để khởi tố WJC/UMASS Boston.

Để trả lời sự tố giác của ông Nguyễn Hữu Luyện, một trong 12 nguyên đơn của vụ án WJC, đối với hai cán bộ cộng sản Nguyễn Huệ Chi và Hoàng Ngọc Hiến, Kevin Bowen của WJC nói rằng “hai giáo sư này đã được đón tiếp nồng nhiệt và đã được cộng đồng người Việt mời đi nói chuyện tại Washington D.C., Texas và California” và rằng “những cuộc viếng thăm ấy là những thành công lớn.”Thật ra đây chỉ là sự bịa đặt của Kevin Bowen và Nguyễn Bá Chung, vì không có cộng đồng nào mời hai ông này đến nói chuyện thì làm sao có sự thành công to lớn?

Có điều, hai “học giả” VC này, nhất là Hoàng Ngọc Hiến đã được chuẩn bị từ lâu.
Từ năm 1990, nhà phê bình văn học Thụy Khuê, một người sinh sống tại miền Nam du học tại Pháp từ trước năm 1975, đã tốt nghiệp và đã ở lại Pháp đã “chuẩn bị” cho Hoàng Ngọc Hiến là một nhà văn phản kháng như sau:
 “…Ở miền Bắc, khi Việt Minh lên nắm chính quyền, sự bạo tàn của đảng Cộng sản đối với tư tưởng đã tàn khốc hơn sự hy sinh xương máu con người và hủy diệt nhiều thế hệ tâm hồn, biến đất nước thành một ngục tù giam hãm tư tưởng. Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Dần, Phùng Quán, Hữu Loan, Hoàng Cầm… Rồi Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyên Ngọc, Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương đã nói nhiều, nói rõ, đã vẽ lên nỗi oan khuất, của một thế kỷ văn học mà nhà văn chỉ là công cụ cho đảng.” (1) 

Hai tạp chí Văn Học (do Nguyễn Mộng Giác và Hoàng Khởi Phong thay thế nhau trong vai trò chủ bút) và Hợp Lưu của Khánh Trường đã đánh bóng rất kỹ hai cán bộ VC Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi.

Tại San Jose, nhà văn Giao Chỉ Vũ Văn Lộc đã trang trọng giới thiệu Hoàng Ngọc Hiến là “một người khách thuộc chương trình khách quốc tế của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ… là người viết bài đầu tiên trong đợt gọi là văn chương phản kháng của thời kỳ Thống Nhất…”  (với chữ “Thống Nhất”  do ông nhà văn Giao Chỉ viết hoa) khi đăng tải lại bài viết “Ngọn gió thổi những chiếc lá bay qua đại dương” trên tờ Thời Báo ở San Jose, để ông cán bộ văn hóa VC Hoàng Ngọc Hiến “kề vai, cọ vế” với các nhà văn ở hải ngoại.

Tạp chí Văn Học của Nguyễn Mộng Giác và Hoàng Khởi Phong, đã tạo điều kiện để Nguyễn Huệ Chi lấy tên của các tác phẩm “phe ta” làm ý diễn đạt quan điểm của mình như sau:
 “Trong khi một số nhà văn lớp trước bớt nói đến ẩn ức chính trị, đi tìm cảm hứng trong lịch sử hoặc trong những chiêm nghiệm thân thế, trầm mặc về đời người - những ‘ngọn cỏ bồng’, cánh ‘bèo giạt’, ‘nụ cười tre trúc’, ‘ngọn hải đăng mù’ – sau nửa thế kỷ vần vũ không biết bao nhiêu ‘lớp sóng phế hưng’, ‘mùa biển động’, ‘gió lửa’, thì đông đảo các nhà văn trẻ - mà số lượng nữ khá vượt trội - lại mãi mê ghi lại vô vàn cảnh lý thú, nực cười của cuộc mưu sinh tất bật nơi quê hương mới, nhiều nhà văn trẻ khác dồn năng lực tìm tòi cách viết mới, cách xếp đặt câu xếp đặt chữ tân kỳ, cách ám dụ bằng biểu tượng cho văn chương thêm đa nghĩa, và cũng không có ít nhà văn không chút thờ ơ trước luồng gió đổi mới từ trong nước, đang cố gắng thoát ra khỏi những mặc cảm quá khứ, chủ động lên tiếng ‘hợp lưu’ để cùng với dòng văn học đổi mới ở trong nước ‘hợp chung thành một dòng văn học Việt có trong có ngoài,’ trong sự cảm thông của những người cầm bút.” 

Và, tại Bắc California, Thượng Văn (tức Lâm Văn Sang - ký giả của tuần báo Việt Mercury tại San Jose, đã đình bản), một trong những người chủ trương tạp chí Nhân Văn (đã đình bản) đã tạo môi trường là đã phỏng vấn có những câu hỏi cò mồi để Nguyễn Huệ Chi có dịp nhi nhô về chuyện WJC đã bị kiện ra tòa án Hoa Kỳ vì đã mời ông ta và Hoàng Ngọc Hiến viết về người Việt tỵ nạn. Cuộc phỏng vấn vào tháng 9 năm 2001 có câu hỏi cò mồi như sau:
Thượng Văn (LVS) hỏi: Anh nghĩ gì về phản ứng của người Việt hải ngoại chống đối sự có mặt của anh Hoàng Ngọc Hiến và anh trong chưong trình của WJC?

Nguyễn Huệ Chi đáp: Theo tôi đấy không phải là phản ứng của mọi người Việt mà chỉ là thiểu số. Người đứng đầu là ông Nguyễn Hữu Luyện. Tôi không biết rõ động cơ đích thực của ông Luyện trong việc phản đối này, nhưng nói rằng người trong nước không hiểu gì về đời sống người Việt hải ngoại thì không thể viết được là không hợp lý. Khi có một chương trình như thế cần phải có cái nhìn từ nhiều phía, trong cũng như ngoài nước mới soi rọi được một mẫu số chung. WJC muốn như thế nên đợt đầu đã tuyển hai người Mỹ và hai chúng tôi. Đợt hai sắp tới nghe nói có 8 người: một người ở Canada, một người ở Pháp và 6 người ở Mỹ. Thế là WJC tương đối công bình chứ không phải có cái nhìn thiên vị. Thứ hai, theo tôi nghĩ, đâu cứ phải cử người nào sang đây cũng có cái nhìn méo mó về người Việt bên này. Những người đã nghe theo ông Nguyễn Hữu Luyện chống chúng tôi, tôi không muốn nghĩ xấu về họ. Mỗi người có thể xuất phát từ những hoàn cảnh éo le nào đấy mà bày tỏ thái độ, chẳng hạn trong gia đình có người vượt biên chẳng may đi không đến, nỗi đau đó của họ tôi sao có thể thờ ơ. Khi ở xa nhìn nhau đôi khi ta tưởng có thể đánh nhau được đây nhưng đến gần thì sao. Thấy mặt mũi anh này có khi cũng có thể nói dăm ba câu. Nói dăm ba câu lại thấy có thể chơi nhau một tuần. Chơi nhau một tuần hóa ra có thể chơi lâu. Tôi nghĩ chỗ đó là mẫu số chung của người Việt. Chấp nhận  sự khác nhau, trọng hòa hơn đồng, nét đặc sắc văn hóa Việt là ở đó.” 

Hơn ai hết, chắc ông Lâm Văn Sang phải thấy đây là một câu trả lời rất lố bịch của “học giả” Nguyễn Huệ Chi. Hơn ai hết, ông Lâm Văn Sang phải biết vụ án WJC không phải chỉ có ông Nguyễn Hữu Luyện và 11 nguyên đơn đứng kiện mà là vụ án của 3 triệu người Việt Quốc Gia tỵ nạn Cộng Sản. Trong trường hợp ông Thượng văn Lâm Văn Sang và những người-cùng-đi-một-đường với ông Lâm Văn Sang đồng ý với câu trả lời của ông “học giả” Nguyễn Huệ Chi vì các ông không đứng chung với 3 triệu người Việt Quốc Gia tỵ nạn Cộng Sản thì tôi xin tôn trọng ý kiến của ông.
Chúng tôi xin không dám nói như nhà văn Sơn Tùng là “sự thật hai ông Nguyễn Huệ Chi và Hoàng Ngọc Hiến đã đến Mỹ trong âm thầm và cũng đã trở về Việt Nam trong âm thầm. Không có cộng đồng người Việt ở hải ngoại mời họ đến nói chuyện thì làm sao có sự thành công lớn? Họ có đi Hoa Thịnh Đốn, Texas và California thật, nhưng cũng đã đi trong âm thầm dưới sự che giấu của vài người quen hay những tổ chức thân cộng nằm vùng để cho biết đó biết đây, thu nhặt ít đồ kỷ niệm hay quà cáp của tư bản, đem về khoác lác với bà con, bạn bè, và viết vài bài báo bịa đặt – như Bowen đã bịa đặt.” 
*
Tám người được tuyển chọn cho chương trình của WJC nên khóa 2001-2002 gồm có:
  1. Karin Aigulair-San Juan, Giáo sư ngành Bắc Mỹ Đại học Macalester.
  2. Đặng Tiến, Giáo sư Văn học Cổ điển Việt Nam, Đại học Paris VII.
  3. Đỗ Quyên, nhà phê bình văn học.
  4. Nguyễn Hữu Liêm, Giáo sư Triết học Đại học San Jose City College.
  5. Nguyễn Thị Thanh, Giáo sư Giáo dục, University of Massachusetts.
  6. Nguyễn văn Trung, Giáo sư Triết, Cựu Khoa trưởng Đại học Văn khoa Sàigòn.
  7. Tạ Chí Đại Trường, Sử gia.
  8. Trin Yarborough, Ký giả.
Mười lăm người người được tuyển chọn cho “Chương trình Rockefeller Nghiên Cứu Về Người Việt ở Nước Ngoài” cho niên khóa 2002-2003 gồm có
  1. Mariam Beevi, sinh viên Tiến sĩ ngành Văn chương Tỷ giảo, Univesity of California Irvine,
  2. Sergei Balgov, Nhà Nghiên cứu và Chuyên gia về đạo Cao Đài và Hòa Hảo.
  3. Bùi Thị Lan Hương, Nhà văn, nhà báo.
  4. Đỗ Minh Tuấn, Đại diễn, Nhà văn, Nhà thơ, Họa sỹ, và Kịch gia.
  5. Maureen Feeney, Sinh viên Tiến sĩ ngành Nhân chủng học Văn hóa, University of Michigan, Ann Arbor.
  6. Hoàng Khởi Phong, Nhà văn, nhà báo, cựu Đại úy QLVNCH.
  7. Nguyễn Ý Đức, bác sĩ Gia đình và Lão khoa, sáng lập tổ chức Cộng đồng Việt Nam tại Baton Rouge và vùng phụ cận.
  8. Nguyễn Mộng Giác, Chủ bút tạp chí Văn Học, nhà văn.
  9. Nguyễn Mạnh Hùng (Nam Dao), Nhà kinh tế, nhà văn, nhà thơ, Kịch gia.
  10. Nguyễn Vy Khanh, Nhà thư viện học, Nhà phê bình, sáng lập viên và Tổng thư ký Liên Hội Người Việt Tự Do Hải Ngoại (1994-1997).
  11. Phạm Xuân Nguyên, Nhà phê bình, Chuyên gia về Văn học Miền Nam trước 1975.
  12. Phan Huy Đuờng, dịch giả, triết gia, phê bình gia.
  13. Meridel Rubenstein, Nhà Nghệ thuật, Nhiếp ảnh gia, Giáo sư Thỉnh giảng tại Smith College.
  14. Trần Văn Thủy, Nhà đạo diễn phim tài liệu xã hội.
  15. Indigo A. Williams, nhà hoạt động xã hội, Nghiên cứu gia.
Trong danh sách đợt 3 của WJC, người ta thấy có 3 nhà văn đã có tác phẩm in trong quyển “The Other Side of Heaven” (Phía Bên Kia Thiên Đường) là quyển sách đã được đem ra bình văn trong cuộc hội thảo “Bể Dâu” tại San Francisco là các ông Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Mộng Giác, Phan Huy Đường.

Theo tuyên bố của tên Nguyễn Bá Chung thì nhà văn Hoàng Phởi Phong sẽ viết về đề tài “Những Nhà Văn Gốc Quân Đội Trong Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại,” Nguyễn Mộng Giác với “Sơ Thảo Về các Giai Đoạn Thành hình Và Phát Triễn của Giòng Văn Xuôi ở Hải Ngoại Từ Năm 1975 Đến 2000.”

Cách đây 8 năm, khi nhà văn Nguyễn Mộng Giác chọn làm người cầm bút “bất thuờng” – nói theo cách nói của ông ta – đi vào bên trong cuộc hội thảo “Bể Dâu” do Vũ Đức Vượng (*), một sinh viên du học trước năm 1975 tổ chức, tôi đã viết bài “Máu Nào Đã Đổ Xuống, Mực Nào Đã Viết Ra Trong Cuộc Bể Dâu Này” để lên tiếng về việc làm này là đã tạo cho Cộng sản Việt nam có diễn đàn để giao lưu văn hóa một chiều trong trận “vận động chiến” tổng tấn công vào “mặt trận giao lưu văn hoá một chiều” ở hải ngoại. Bài viết đã được in trong tập tạp luận được đổi tên cho ngắn gọn là “Máu Mực Bể Dâu” được Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam Tự Do Hải Ngoại xuất bản vào năm 2002.

Tám năm sau, lời than vãn của nhà văn Nguyễn Mộng Giác về việc nhà cầm quyền CSVN “cấm đoán không cho sách báo hải ngoại phổ biến trong nước, hay ít nhất không tạo điều kiện cho những người cầm bút tiếp cận với văn học hải ngoại, thì những lời tuyên bố như trên chỉ là những lời tuyên truyền chính trị” đã không còn đúng đối với ông ta nữa. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác và nhà văn Nhật Tiến đã được CSVN cho phép in và phổ biến tác phẩm ở trong nước. Nguyễn Mộng Giác và Hoàng Khởi Phong lại được tên Việt gian Nguyễn Bá Chung, một sinh viên du học trước năm 1975 móc nối để cùng WJC thực hiện âm mưu thâm độc là viết “tờ căn cước đỏ” cho 3 triệu người Việt Quốc Gia tỵ nạn Cộng Sản. Chuyện này không phải là chuyện lạ vì thời nào mà chẳng có những kẻ bám đuôi theo kẻ mạnh để kiếm miếng đỉnh chung, kiếm chút danh lợi cuối đời. Nhưng thời nào cũng thế: nếu đã có “Tụng Tây Hồ phú” thì ắt có “Chiến Tụng Tây Hồ phú”; nếu đã có Tôn Thọ Tường vì tham miếng đỉnh chung cam tâm cúi đầu theo giặc Pháp, mượn hơi giặc Pháp hăm he những người yêu nước:
“Miệng cọp, hàm rồng đâu dễ chọc
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay.”
Thì ắt sẽ có Phan Văn Trị nói lời khẳng khái, quyết liệt: 
“Chớ mượn hơi hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt đá há lung lay!” 

Ngày 13 tháng 5 năm 2003, truyền hình Việt Nam tại Boston có tường trình vụ WJC họp với một số nhà văn Việt Nam và Mỹ tại trường đại học Harvard.
Toàn bộ vấn đề nhà văn Nguyễn Mộng Giác nêu lên gồm hai điểm chính:
-Giới nhà văn trẻ du học trước năm 1975 tham dự phong trào phản chiến bị cộng đồng gọi là Việt Cộng (sic!)
-Nguồn văn học hải ngoại hiện nay đang tập trung tại Hoa Kỳ, nhưng trong tương lai, các nhà văn trẻ tại Đức vốn sẵn có nhiều quan tâm đến tình hình trong nước và có nhiều hiểu biết về những vấn đề trong nước hơn, sẽ giành ưu thế và chuyển trung tâm văn học Mỹ sang Âu Châu. 

Xin không đề cập đến việc nhà văn Nguyễn Mộng Giác tiên đoán “trung tâm văn học Mỹ sẽ chuyển sang Âu Châu” trong tương lai, để có thể, từ đó, “Ủy ban người Việt ở nước ngoài” của CSVN sẽ thiết lập chiến lược tiêu diệt cộng đồng người Việt Quốc Gia tỵ nạn cộng sản có hiệu quả hơn, vì đó là quyền tự do của nhà văn Nguyễn Mộng giác và những người đang cùng-đi-một-đuờng với ông ta.

Chúng tôi xin đề cập đến việc nhà văn Nguyễn Mộng Giác “gán tội” cho cộng đồng người Việt Quốc Gia tỵ nạn cộng sản “đã gọi những nhà văn trẻ du học trước năm 1975 tham dự phong trào phản chiến là Việt Cộng.” Theo tôi, đây là một nhận định không được chính xác, nếu không muốn nói là hàm hồ. Không có cộng đồng nào gọi “những nhà văn trẻ du học trước 1975 tham dự phong trào phản chiến là VC” cả, mà chính những người này tự khắc lên trán mình mấy chữ “Việt gian,” “tay sai Việt Cộng”, tạo cơ hội để Việt Cộng xâm nhập, đánh phá cộng đồng như trường hợp “sinh viên du học trước 1975” Nguyễn Bá Chung đã chê bai chế độ miền Nam đã tham nhũng, đã nhận tiền hối lộ để cấp giấy phép cho anh ta đi du học (trong lúc hàng trăm ngàn thanh niên khác cùng trang lứa với anh ta đang phải hy sinh xương máu để bảo vệ chế độ miền Nam để anh ta dùng tiền hối lộ để đi du học!) Chỉ có “nhà thơ du học trước năm 1975” Nguyễn Bá Chung mới làm bài thơ “Nguyễn Bính” với hai câu:
“Nửa đời mới biết công danh hảo
Giày cỏ, gươm cùn đến trắng tay” 

để Hoàng Ngọc Hiến dùng thủ thuật trích dẫn để diễn giải là “có thể hiểu với ý nghĩa thời sự là tác giả mượn thân phận của nhà thơ giang hồ họ Nguyễn để cảm khái tâm trạng vỡ mộng của mình và những chàng trai cùng thế hệ hiện đương long đong nơi đất khách quê người.” (3)

Với tư cách Giám đốc Chương trình Nghiên cứu về người tỵ nạn Cộng sản, Nguyễn Bá Chung đã làm thơ bài thơ “Di Tản” mô tả thế hệ di tản như sau:
“Là mảnh vụn của sỏi đá
là giọt nước của ao tù
là tia nắng cuối cùng mong manh
là viên đạn lép
      cuối lòng súng rỉ
là ngôn ngữ bất lực
      của tháng ngày bất lực
là vết bầm cuối cùng
       của cuộc nội thương
là vết rêu của sỏi đá
là hơi sương trên  ao tù
là tia nắng cuối đời mong manh
là viên đạn lép
        không bao giờ bắn nữa
là ngôn ngữ khởi đầu
        khi tiếng bom chấm dứt
là những gì còn đọng lại
        sau cơn động đất cuối mùa.” 

Thử hỏi với bài thơ bêu rếu những người di tản như trên, cộng đồng người Việt Quốc Gia tỵ nạn Cộng Sản tại hải ngoại phải gọi ông “sinh viên du học trước năm 1975” Nguyễn Bá Chung là gì cho chính danh, nếu không gọi đúng tên là “Việt gian,” “tên tay sai Việt Cộng?”

Những người có quan tâm đến văn học đến việc làm của “các sinh viên du học trước 1975” đều biết Đặng Tiến, một “sinh viên du học trước 1975” đã đỗ đạt (?) và đã ở lại Pháp, với bút hiệu Nam Chi đã viết những bài phê bình văn học đăng trên tờ Đoàn Kết, tờ báo của “Việt kiều yêu nước” tại Paris. Trong các bài viết về các nhà văn, nhà thơ hải ngoại, Nam Chi không hể để lộ ra bất cứ một dấu vết nào chúng tỏ mình là cộng sản. Biện minh lý do tại sao mình thích và chọn bình thơ Nguyễn Bá Trạc, Nam Chi cho biết ông yêu cái “tia nắng an lành… niềm vui mới” của nhà thơ này. Qua một số bài viết khác, những người có theo dõi cũng được biết Nam Chi Đặng Tiến đã nhiệt liệt khen ngợi bài thơ “Tôi đi trên những con đường rừng cũ”của “kháng chiến quân” Hoàng Phủ Ngọc Tường là “kết hợp được ý chí chiến đấu với một niềm u hoài khó tả.” và khi đọc bài viết của Nam Chi viết về Tố Hữu với câu kết thúc bằng một lời “phảng phất ngọc lan chi vị”: “Đọc thơ Tố Hữu, càng đọc càng yêu” thì người ta mới thấy cái thái độ xum xoe, bợ đỡ, “hôn đít bạo quyền” của Đặng Tiến cứ như là một đối tượng Đảng không bằng! (4)

Các ông nhà văn, nhà thơ “sinh viên du học trước năm 1975” Đặng Tiến, Nguyễn Bá Chung v.v… được những người Việt Quốc Gia tỵ nạn Cộng Sản gọi họ là “Việt gian” là “tay sai VC” bởi vì chính các ông này đã đã khắc lên trán mình mấy chữ này, chứ không có Cộng đồng Người Việt Quốc Gia tỵ nạn Cộng Sản gọi là  “Việt gian,” là “tay sai VC” cả. Đề nghị nhà văn Nguyễn Mộng Giác muốn xum xoe, bợ đỡ những người này để được làm “Việt gian,” làm “tay sai cho VC” thì cứ làm. Đừng tìm cách biện minh này nọ mà làm gì.

Cách đây tám năm, nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã “can đảm” đi vào cuộc hội thảo “Bể Dâu” do Vũ Đức Vượng, một “sinh viên du học trước năm 1975” tổ chức với lý do là “để tranh đấu cho những người cầm bút miền Nam có tiếng nói.” Bởi vì, theo nhà văn Nguyễn Mộng Giác thì: “Người miền Nam, một bộ phận quan trọng của dân tộc, vẫn vắng mặt. Họ vẫn bị liệt vào đám đông nhếch nhác của nhân vật phản diện. Họ không được quyền ‘đẹp trai,” càng không được quyền làm mềm lòng một cô bộ đội miền Bắc.” nay, thì mọi chuyện đã khác: nhà văn Nguyễn Mộng Giác (*) đã được cất tiếng nói. Tác phẩm của ông và nhà văn Nhật Tiến đã được Đảng và Nhà Nước CS cho phép in và phát hành ở trong nước. Cùng với Hoàng Khởi Phong, nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã được “trả công dẫn đường” là đã được WJC tuyển chọn trong đợt 3 để tiếp tục công việc viết lại “tờ căn cước đỏ” cho cộng đồng người Việt Quốc Gia tỵ nạn Cộng Sản mà hai cán bộ VC Hoàng ngọc Hiến (*) và Nguyễn Huệ Chi với sự tiếp tay của Kevin Bowen và Nguyễn Bá Chung đã khởi đầu và đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của “những người không chịu vui niềm vui mới giữa những tang thương và đau khổ của đất nước” (4), đã dẫn đến vụ kiện Trung tâm William Joiner ra trước tòa án Hoa Kỳ.

Theo bản tin mới nhất của ông Nguyễn Hữu Luyện gửi cho cộng đồng ngày 22 tháng 5 năm 2003 thì phía bị cáo WJC đã xin hoãn phiên xử tới ngày 16-12-2003 để xin giải quyết bên ngoài tòa án và xin bồi thường 250.000 Mỹ kim và một lá thư xin lỗi, nhưng ông Nguyễn Hữu Luyện đã không đồng ý, vì theo ông Luyện, chúng ta cần một bản án để vô hiệu hóa chương trình nghiên cứu đầy tội ác của WJC nhằm bảo vệ vị trí lịch sử của 3 triệu người Việt Quốc Gia tỵ nạn Cộng Sản.

Tiếc thay, có một số người Việt tỵ nạn cộng sản mau quên vì chút danh lợi cuối đời đã tham dự chương trình WJC để làm bình phong cho chương trình viết “tờ căn cước đỏ” cho 3 triệu người Việt Quốc Gia tỵ nạn Cộng sản do nhóm phản chiến Hoa Kỳ (David Hunt và Kevin Bowen) và tay sai Việt Cộng như Nguyễn Bá Chung chủ trương và thực hiện.

NGUYỄN THIẾU NHẪN 
San Jose 20-06-2003 

Chú thích:
  1. Thụy Khuê, văn học nghệ thuật trước tình thế mới, tham luận đọc tại hội luận về Dân chủ đa nguyên do nhóm Thông Luận tổ chức tại Paris ngày 27-10-1990.
  2. Số 184 năm 2001, trang 29, 30.
  3. Tóm lược vụ án WJC Boston, Nguyễn Hữu Luyện.
  4. “Từ Chế Lan Viên đến Nam Chi…”,Trần Ngọc Lũ, Tân Văn số Xuân Mậu Thìn. 
(*) Nhà báo Nguyễn Quý Đức đã về VN mở quán cà phê, nhà văn” chạy trốn tổ quốc” đã được VC cho về nước sinh sống, nhà văn Nguyễn Mộng Giác, nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến đã qua đời, Vũ Đức Vượng đã được CSVN thưởng công cho phụ trách chuơng trình “Niên Học Nước Ngoài”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét